045.
CŪḶADHAMMASAMĀDĀNASUTTAṂ
|
045.
CŪḶADHAMMASAMĀDĀNASUTTAṂ - Tạng Miến Điện by Ven. Khánh
Hỷ |
045. TIỂU KINH PHÁP HÀNH - HT. Thích
Minh Châu, Nguồn: Budsas 7.07 |
468. Evaṃ me sutaṃ–ekaṃ samayaṃ Bhagavā Sāvatthiyaṃ
viharati Jetavane Anāthapiṇdikassa ārāme.
|
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại
Jetavana, tịnh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Độc).
|
Tatra kho Bhagavā
bhikkhū āmantesi “Bhikkhavo”ti. |
Rồi Thế Tôn
gọi các Tỷ-kheo: -- Này các Tỷ-kheo!
|
“Bhadante”ti te bhikkhū
Bhagavato paccassosuṃ. Bhagavā etadavoca |
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Những vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn. Thế Tôn giảng như sau: |
“Cattārimāni bhikkhave
dhammasamādānāni. Katamāni cattāri. Atthi bhikkhave
dhammasamādānaṃ paccuppannasukhaṃ āyatiṃ dukkhavipākaṃ, atthi
bhikkhave dhammasamādānaṃ paccuppannadukkhañceva āyatiṃ ca
dukkhavipākaṃ, atthi bhikkhave dhammasamādānaṃ
paccuppannadukkhaṃ āyatiṃ sukhavipākaṃ, atthi bhikkhave
dhammasamādānaṃ paccuppannasukhañceva āyatiṃ ca sukhavipākaṃ.
|
-- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại
pháp hành này. Thế nào là bốn? Này các Tỷ-kheo, có loại pháp
hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ. Này các Tỷ-kheo, có
loại pháp hành hiện tại khổ và tương lai quả báo cũng khổ. Này
các Tỷ-kheo, có loại pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo
lạc. Này các Tỷ-kheo, có loại pháp hành hiện tại lạc, và tương
lai quả báo cũng lạc. |
bốn
loại pháp hành <> four ways of undertaking things <> four ways
of taking on practices <> these four are the observances in the
Teaching <>
bốn lối thực hành pháp, bốn lối hành tŕ pháp <>
Cattārimāni bhikkhave dhammasamādānāni <>
|
469. Katamañca bhikkhave dhammasamādānaṃ
paccuppannasukhaṃ āyatiṃ dukkhavipākaṃ. Santi bhikkhave eke
samaṇabrāhmaṇā evaṃvādino evaṃdiṭṭhino “Natthi kāmesu doso”ti.
Te kāmesu pātabyataṃ āpajjanti. Te kho moḷibaddhāhi (Moḷibandhāhi
- Syā, Kaṃ, Ka)
paribbājikāhi
paricārenti. Te evamāhaṃsu “Kiṃsu nāma te bhonto samaṇabrāhmaṇā
kāmesu anāgatabhayaṃ sampassamānā kāmānaṃ pahānamāhaṃsu, kāmānaṃ
pariññaṃ paññapenti. Sukho imissā paribbājikāya taruṇāya
mudukāya lomasāya bāhāya samphasso”ti. Te kāmesu pātabyataṃ
āpajjanti. Te kāmesu pātabyataṃ āpajjitvā kāyassa bhedā paraṃ
maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ Nirayaṃ upapajjanti. Te tattha
dukkhā tibbā kharā kaṭukā vedanā vedayanti. Te evamāhaṃsu “Idaṃ
kho te bhonto samaṇabrāhmaṇā kāmesu anāgatabhayaṃ sampassamānā
kāmānaṃ pahānamāhaṃsu, kāmānaṃ pariññaṃ paññapenti, ime hi mayaṃ
kāmahetu kāmanidānaṃ dukkhā tibbā kharā kaṭukā vedanā
vedayāmā”ti. |
Này các Tỷ-kheo, thế nào là loại
pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ? Này các Tỷ-kheo,
có một số Sa-môn thuyết như sau, có sở kiến như sau: "Không có
lỗi trong các dục". Những vị này đắm ḿnh trong các dục, hoan
lạc với các cô gái lang thang có tóc quấn trên đầu. Họ nói như
sau: "Làm sao các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn kia thấy sự sợ hăi
tương lai của các dục, nói đến sự đoạn trừ các dục, nêu lên sự
hiểu biết về các dục. Khoái lạc thay, sự xúc chạm với bàn tay có
lông mịn của các cô gái lang thang trẻ trung này!" Sau khi đắm
ḿnh trong các dục, khi thân hoại mạng chung, các vị ấy phải
sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Ở đây, họ cảm thọ
những cảm giác đau khổ, thống khổ, khốc liệt. Họ nói như sau:
"Các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn này thấy sự sợ hăi tương lai của
các dục, nói đến sự đoạn trừ các dục, nêu lên sự hiểu biết về
các dục. Nhưng chúng ta, do các dục này làm nhân, do các dục này
làm duyên, phải cảm thọ những cảm giác đau khổ, thống khổ, khốc
liệt". |
- hoan lạc với <> divert
themselves <> consort with <> are the followers of <>
paricārenti = (caus. của paricarati) giúp đỡ, hầu hạ, tự tiêu
khiển, giải trí <> thân cận với
- với các cô gái lang thang
<> với các nữ du sĩ, với các nữ đạo sĩ khổ hạnh <> paribbājikāhi
<> tāpasaparibbājikāhi (Chú Giải) <>
-
Khoái lạc thay sự xúc chạm với
cánh tay trẻ trung, mềm mại, có
lông mịn của nữ du sĩ này!"
- Họ đă
nói như sau: "Các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn
ấy, trong khi nh́n thấy sự sợ hăi
này trong tương lai
ở nơi các dục, đă nói đến sự
dứt bỏ các dục, nêu lên sự hiểu
biết về các dục. Bởi v́ do nhân các dục,
do duyên các dục, mà chúng ta đây
cảm thọ những cảm giác đau khổ, thống khổ, khốc liệt".
|
Seyyathāpi bhikkhave gimhānaṃ pacchime māse
māluvāsipāṭikā phaleyya, atha kho taṃ bhikkhave māluvābījaṃ
aññatarasmiṃ sālamūle nipateyya. Atha kho bhikkhave yā tasmiṃ
sāle adhivatthā devatā sā bhītā saṃviggā santāsaṃ āpajjeyya.
Atha kho bhikkhave tasmiṃ sāle adhivatthāya devatāya mittāmaccā
ñātisālohitā ārāmadevatā vanadevatā rukkhadevatā
osadhitiṇavanappatīsu adhivatthā devatā saṅgamma samāgamma evaṃ
samassāseyyuṃ “Mā bhavaṃ bhāyi mā bhavaṃ bhāyi, appeva nāmetaṃ
māluvābījaṃ moro vā gileyya (Moro
vā gileyya, godhā vā khādeyya - Ka),
mago vā khādeyya, davadāho (Vanadāho
- Ka)
vā daheyya,
vanakammikā vā uddhareyyuṃ, upacikā vā uṭṭhaheyyuṃ (Udrabheyyuṃ
- Sī, I, Ka), abījaṃ
vā panassā”ti. Atha kho taṃ bhikkhave māluvābījaṃ neva moro
gileyya, na mago khādeyya, na davadāho daheyya, na vanakammikā
uddhareyyuṃ, na upacikā uṭṭhaheyyuṃ, bījaṃ ca panassa, taṃ
pāvussakena meghena abhippavuṭṭhaṃ sammadeva viruheyya. Sāssa
māluvālatā taruṇā mudukā lomasā vilambinī. Sā taṃ sālaṃ
upaniseveyya. Atha kho bhikkhave tasmiṃ sāle adhivatthāya
devatāya evamassa “Kiṃsu nāma te bhonto mittāmaccā ñātisālohitā
ārāmadevatā vanadevatā rukkhadevatā osadhitiṇavanappatīsu
adhivatthā devatā māluvābīje anāgatabhayaṃ sampassamānā saṅgamma
samāgamma evaṃ samassāsesuṃ (Samassāseyyuṃ
- Ka)
‘Mā bhavaṃ bhāyi mā
bhavaṃ bhāyi, appeva nāmetaṃ māluvābījaṃ moro vā gileyya, mago
vā khādeyya, davadaho vā daheyya, vanakammikā vā uddhareyyuṃ,
upacikā vā uṭṭhaheyyuṃ, abījaṃ vā panassā’ti. Sukho imissā
māluvālatāya taruṇāya mudukāya lomasāya vilambiniyā
samphasso”ti. Sā taṃ sālaṃ anuparihareyya, sā taṃ sālaṃ
anupariharitvā upari viṭabhiṃ (Viṭapaṃ
- Syā—Ṭha) kareyya,
upari viṭabhiṃ karitvā oghanaṃ janeyya, oghanaṃ janetvā ye tassa
sālassa mahantā mahantā khandhā, te padāleyya. Atha kho
bhikkhave tasmiṃ sāle adhivatthāya devatāya evamassa “Idaṃ kho
te bhonto mittāmaccā ñātisālohitā ārāmadevatā vanadevatā
rukkhadevatā osadhitiṇavanappatīsu adhivatthā devatā māluvābīje
anāgatabhayaṃ sampassamānā saṅgamma samāgamma evaṃ samassāsesuṃ
(Samassāseyyuṃ
- Ka) ‘Mā bhavaṃ
bhāyi mā bhavaṃ bhāyi, appeva nāmetaṃ māluvābījaṃ moro vā
gileyya, mago vā khādeyya, davadāho vā daheyya, vanakammikā vā
uddhareyyuṃ, upacikā vā uṭṭhaheyyuṃ, abījaṃ vā panassā’ti.
Yañcāhaṃ (Yaṃ
vāhaṃ - Ka; svāhaṃ - Syā, Kaṃ)
māluvābījahetu dukkhā tibbā kharā kaṭukā vedanā vedayāmī”ti.
|
Này các Tỷ-kheo, ví như vào cuối
tháng mùa nóng, một bẹ hột giống cây leo nứt ra và này các
Tỷ-kheo, một hột giống cây leo rơi dưới gốc một cây sala. Này
các Tỷ-kheo, các vị thần ở trên cây sala ấy lo sợ, run sợ, và
hoảng sợ. Bạn bè thân hữu, bà con huyết thống các vị thần trên
cây sala ấy, thần vườn, thần rừng, thần cây, thần các dược thảo,
cỏ, rừng hội họp lại, an ủi như sau: "Này Tôn giả, chớ có sợ
hăi! Này Tôn giả, chớ có sợ hăi! V́ hạt giống ấy, con khổng tước
có thể nuốt, con nai có thể ăn, lửa rừng có thể đốt, người làm
rừng có thể nhặt đi, các loài mối có thể ăn, hay hạt giống có
thể không nẩy mầm". Nhưng này các Tỷ-kheo, hạt giống ấy, con
khổng tước không nuốt, con nai không ăn, lửa rừng không đốt,
người làm rừng không nhặt đi, các loài mối không ăn, và hạt
giống có thể nẩy mầm. Được mưa lớn nhờ các làn mây đúng mùa, hạt
giống ấy được lớn lên, và một dây leo trẻ, mềm mại, có lông,
chậm chậm mọc lên và bám dính cây sala ấy. Này các Tỷ-kheo, các
vị thần trên cây sala ấy suy nghĩ như sau: "Không hiểu v́ sao
các Tôn giả bạn bè thân hữu, bà con huyết thống ấy, các thần
vườn, thần rừng, thần cây, các vị thần trên các dược thảo, cỏ,
rừng, thấy sự sợ hăi tương lai trong hột giống, hội họp lại, an
ủi như sau: "Này Tôn giả, chớ có sợ hăi! Này Tôn giả chớ có sợ
hăi! V́ hột giống ấy, con khổng tước có thể nuốt, con nai có thể
ăn, lửa rừng có thể đốt, những người làm rừng có thể nhặt đi,
các loài mối có thể ăn, hay hạt giống có thể không nẩy mầm".
Khoái lạc thay sự xúc chạm của cây leo trẻ trung mềm mại, có
lông đang bám vào!" Cây leo ấy có thể bao trùm cây sala ấy, sau
khi bao trùm, liền làm thành một tàn che trên cây ấy, và ở dưới
khởi lên cả một lùm cây rậm rạp. Khi ở dưới khởi lên cả một lùm
cây rậm rạp, các cành lớn của cây sala ấy có thể bị bóp nghẹt.
Rồi này các Tỷ-kheo, các thần trú trên cây sa la ấy suy như sau:
"Chính v́ thấy sự sợ hăi tương lai này, trong hột giống cây leo
ấy mà những Tôn giả, bạn bè thân hữu, bà con huyết thống ấy, các
thần vườn, thần rừng, thần cây, các vị thần ở trên các dược
thảo, cỏ, rừng, đă hội họp lại và an ủi như sau: "Này Tôn giả
chớ có sợ hăi! Này Tôn giả, chớ sợ hăi! V́ hạt giống ấy, con
khổng tước có thể nuốt, con nai có thể ăn, lửa rừng có thể đốt,
những người làm rừng có thể nhặt đi, các loài mối có thể ăn, hay
hạt giống có thể không nẩy mầm". Và nay ta, v́ nguyên nhân hạt
giống cây leo, cảm thọ những cảm giác đau khổ, thống khổ, khốc
liệt".
|
Evameva kho bhikkhave santi eke samaṇabrāhmaṇā evaṃvādino
evaṃdiṭṭhino “Natthi kāmesu doso”ti. Te kāmesu pātabyataṃ
āpajjanti, te moḷibaddhāhi paribbājikāhi paricārenti. Te
evamāhaṃsu “Kiṃsu nāma te bhonto samaṇabrāhmaṇā kāmesu
anāgatabhayaṃ sampassamānā kāmānaṃ pahānamāhaṃsu, kāmānaṃ
pariññaṃ paññapenti, sukho imissā paribbājikāya taruṇāya
mudukāya lomasāya bāhāya samphasso”ti. Te kāmesu pātabyataṃ
āpajjanti, te kāmesu pātabyataṃ āpajjitvā kāyassa bhedā paraṃ
maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ Nirayaṃ upapajjanti, te tattha
dukkhā tibbā kharā kaṭukā vedanā vedayanti. Te evamāhaṃsu “Idaṃ
kho te bhonto samaṇabrāhmaṇā kāmesu anāgatabhayaṃ sampassamānā
kāmānaṃ pahānamāhaṃsu, kāmānaṃ pariññaṃ paññapenti, ime hi mayaṃ
kāmahetu kāmanidānaṃ dukkhā tibbā kharā kaṭukā vedanā
vedayāmā”ti. Idaṃ vuccati bhikkhave dhammasamādānaṃ
paccuppannasukhaṃ āyatiṃ dukkhavipākaṃ.
|
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có
một số Sa-môn, Bà-la-môn thuyết như sau, có sở kiến như sau:
"Không có lỗi trong các dục". Những vị này đắm ḿnh trong các
dục, họ hoan lạc với các cô gái lang thang có tóc quấn trên đầu.
Họ nói như sau: "Làm sao các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy thấy
sự sợ hăi tương lai của các dục, nói đến sự đoạn trừ các dục,
nêu lên sự hiểu biết về các dục. Khoái lạc thay, sự xúc chạm với
bàn tay có lông mịn của cô gái lang thang trẻ trung này!" Sau
khi đắm ḿnh trong các dục, khi thân hoại mạng chung, họ phải
sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Ở đây, họ cảm thọ
những cảm giác đau khổ, thống khổ, khốc liệt. Họ nói như sau:
"Các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy thấy sự sợ hăi tương lai của
các dục, nói đến sự đoạn trừ các dục, nêu lên sự hiểu biết về
các dục. Nhưng chúng ta, v́ nhân các dục này, v́ duyên các dục
này, phải cảm thọ những cảm giác đau khổ, thống khổ, khốc liệt".
Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là pháp hành hiện tại lạc, tương
lai quả báo khổ.
|
470. Katamañca bhikkhave dhammasamādānaṃ
paccuppannadukkhañceva āyatiṃ ca dukkhavipākaṃ. Idha bhikkhave
ekacco acelako hoti muttācāro, hatthāpalekhano,
na-ehibhaddantiko, natiṭṭhabhaddantiko, nābhihaṭaṃ, na
uddissakataṃ, na nimantanaṃ sādiyati, so na kumbhimukhā
paṭiggaṇhāti, na kaḷovimukhā paṭiggaṇhāti, na eḷakamantaraṃ, na
daṇdamantaraṃ, na musalamantaraṃ, na dvinnaṃ bhuñjamānānaṃ, na
gabbhiniyā, na pāyamānāya, na purisantaragatāya, na saṅkittīsu.
Na yattha sā upaṭṭhito hoti, na yattha makkhikā
saṇdasaṇdacārinī, na macchaṃ, na maṃsaṃ, na suraṃ, na merayaṃ,
na thusodakaṃ pivati. So ekāgāriko vā hoti ekālopiko, dvāgāriko
vā hoti dvālopiko. Pa . Sattāgāriko vā hoti sattālopiko.
Ekissāpi dattiyā yāpeti, dvīhipi dattīhi yāpeti. Pa . Sattahipi
dattīhi yāpeti. Ekāhikampi āhāraṃ āhāreti, dvīhikampi āhāraṃ
āhāreti. Pa . Sattāhikampi āhāraṃ āhāreti, iti evarūpaṃ
addhamāsikampi pariyāyabhattabhojanānuyogamanuyutto viharati. So
sākabhakkho vā hoti, sāmākabhakkho vā hoti, nīvārabhakkho vā
hoti, daddulabhakkho vā hoti, haṭabhakkho vā hoti, kaṇabhakkho
vā hoti, ācāmabhakkho vā hoti, piññākabhakkho vā hoti,
tiṇabhakkho vā hoti, gomayabhakkho vā hoti, vanamūlaphalāhāro
yāpeti pavattaphalabhojī. So sāṇānipi dhāreti, masāṇānipi
dhāreti, chavadussānipi dhāreti, paṃsukūlānipi dhāreti,
tirīṭānipi dhāreti, ajinampi dhāreti, ajinakkhipampi dhāreti,
kusacīrampi dhāreti, vākacīrampi dhāreti, phalakacīrampi
dhāreti, kesakambalampi dhāreti, vāḷakambalampi dhāreti,
ulūkapakkhampi dhāreti, kesamassulocakopi hoti,
kesamassulocanānuyogamanuyutto, ubbhaṭṭhakopi hoti,
āsanapaṭikkhitto, ukkuṭikopi hoti ukkuṭikappadhānamanuyutto,
kaṇṭakāpassayikopi hoti, kaṇṭakāpassaye seyyaṃ kappeti (Passa
mahāsīhanādasutte (111) piṭṭhe),
sāyatatiyakampi udakorohanānuyogamanuyutto viharati. Iti
evarūpaṃ anekavihitaṃ kāyassa ātāpanaparitāpanānuyogamanuyutto
viharati, so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ
vinipātaṃ Nirayaṃ upapajjati. Idaṃ vuccati bhikkhave
dhammasamādānaṃ paccuppannadukkhañceva āyatiṃ ca dukkhavipākaṃ.
|
Này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp
hành hiện tại khổ và tương lai quả báo cũng khổ? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có người sống lơa thể, sống phóng túng, không theo lễ
nghi, liếm tay cho sạch, đi khất thực không chịu bước tới, đi
khất thực không chịu đứng lại, không nhận đồ ăn mang đến, không
nhận đồ ăn đặc biệt nấu cho ḿnh, không nhận mời đi ăn, không
nhận đồ ăn từ nơi nồi chảo, không nhận đồ ăn đặt tại ngưỡng cửa,
không nhận đồ ăn đặt giữa những cây gậy, không nhận đồ ăn đặt
giữa những cối giă gạo, không nhận đồ ăn từ hai người đang ăn,
không nhận đồ ăn từ người đàn bà có thai, không nhận đồ ăn từ
người đàn bà đang cho con bú, không nhận đồ ăn từ người đàn bà
đang giao cấu, không nhận đồ ăn đi quyên, không nhận đồ ăn tại
chỗ có chó đứng, không nhận đồ ăn tại chỗ có ruồi bu, không ăn
cá, ăn thịt, không uống rượu nấu, rượu men, cháo cám. Vị ấy chỉ
nhận ăn tại một nhà, chỉ nhận ăn một miếng, hay vị ấy chỉ nhận
ăn tại hai nhà, chỉ nhận ăn hai miếng, hay vị ấy chỉ nhận ăn tại
bảy nhà, vị ấy chỉ nhận ăn bảy miếng. Vị ấy nuôi sống chỉ với
một bát, nuôi sống chỉ với hai bát, nuôi sống chỉ với bảy bát.
Vị ấy chỉ ăn một ngày một bữa, hai ngày một bữa, bảy ngày một
bữa. Như vậy vị ấy sống theo hạnh tiết chế ăn uống cho đến nửa
tháng mới ăn một lần. Vị ấy chỉ ăn cỏ lúa để sống, lúa tắc, gạo
lức, ăn hột cải nivara, ăn da vụn, ăn cám, uống nước bột gạo, ăn
bột vừng, ăn cỏ, ăn phân ḅ, ăn trái cây, ăn rễ cây trong rừng,
ăn trái cây rụng để sống. Vị ấy mặc vải gai thô, mặc vải gai thô
lẫn với các vải khác, mặc vải tẩm liệm quăng đi, mặc vải phấn
tảo y, mặc vỏ cây tikitaka làm áo, mặc da con sơn dương đen, mặc
áo bện từng mảnh da con sơn dương đen, mặc áo bằng cỏ cát tường,
mặc áo vỏ cây, mặc áo bằng tấm gỗ nhỏ, mặc áo bằng tóc bện lại
thành mền, mặc áo bằng đuôi ngựa bện lại, mặc áo bằng lông cú.
Vị ấy là người sống nhổ râu tóc, là người tập tục sống nhổ râu
tóc, là người theo hạnh thường đứng không dùng chỗ ngồi, là
người ngồi cḥ hỏ, sống theo hạnh ngồi cḥ hỏ một cách tinh tấn,
là người dùng gai làm giường, thường ngủ nằm trên giường gai,
sống dùng ván gỗ làm giường, sống nằm trên đất trần, thường nằm
ngủ một bên hông, sống để bụi và nhớp che dấu thân ḿnh, sống và
ngủ ngoài trời, theo hạnh bạ đâu nằm đấy, sống ăn các uế vật,
theo hạnh ăn các uế vật, sống không uống nước lạnh, theo hạnh
không uống nước lạnh, sống một đêm tắm ba lần, theo hạnh xuống
nước tắm (để gột sạch tội lỗi). Như vậy, vị ấy sống theo hạnh
hành hạ xác thân dưới nhiều h́nh thức như vậy. Vị ấy sau khi
thân hoại mạng chung phải sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa
ngục. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là pháp hành hiện tại
khổ và tương lai quả báo cũng khổ.
|
471. Katamañca bhikkhave dhammasamādānaṃ
paccuppannadukkhaṃ āyatiṃ sukhavipākaṃ. Idha bhikkhave ekacco
pakatiyā tibbarāgajātiko hoti, so abhikkhaṇaṃ rāgajaṃ dukkhaṃ
domanassaṃ paṭisaṃvedeti. Pakatiyā tibbadosajātiko hoti, so
abhikkhaṇaṃ dosajaṃ dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti. Pakatiyā
tibbamohajātiko hoti, so abhikkhaṇaṃ mohajaṃ dukkhaṃ domanassaṃ
paṭisaṃvedeti. So sahāpi dukkhena sahāpi domanassena assumukhopi
rudamāno paripuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ carati, so kāyassa
bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati. Idaṃ vuccati
bhikkhave dhammasamādānaṃ paccuppannadukkhaṃ āyatiṃ
sukhavipākaṃ.
|
Này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp
hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có người tự tánh sanh ra quá nặng về tham ái, luôn luôn
cảm thọ những cảm giác khổ ưu do tham ái sanh; có người tự tánh
sanh ra quá nặng về sân hận, luôn luôn cảm thọ những cảm giác
khổ ưu do sân hận sanh; có người tự tánh sanh ra quá nặng về si
mê, luôn luôn cảm thọ những cảm giác khổ ưu do si mê sanh. Với
khổ và với ưu, với mặt đầy nước mắt và khóc than, vị ấy sống
theo phạm hạnh, hoàn toàn đầy đủ trong sạch. Vị ấy sau khi thân
hoại mạng chung, được sanh thiện thú, Thiên giới, cơi đời này.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là pháp hành hiện tại khổ,
tương lai quả báo lạc. |
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
bẩm tánh tự nhiên nặng về luyến ái,
thường xuyên cảm thọ
khổ ưu sanh lên do luyến ái.
|
472. Katamañca bhikkhave dhammasamādānaṃ
paccuppannasukhañceva āyatiṃ ca sukhavipākaṃ. Idha bhikkhave
ekacco pakatiyā na tibbarāgajātiko hoti, so na abhikkhaṇaṃ
rāgajaṃ dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti. Pakatiyā na
tibbadosajātiko hoti, so na abhikkhaṇaṃ dosajaṃ dukkhaṃ
domanassaṃ paṭisaṃvedeti. Pakatiyā na tibbamohajātiko hoti, so
na abhikkhaṇaṃ mohajaṃ dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti. So
vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ
vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharati.
Vitakkavicārānaṃ vūpasamā ajjhattaṃ sampasādanaṃ cetaso
ekodibhāvaṃ avitakkaṃ avicāraṃ samādhijaṃ pītisukhaṃ dutiyaṃ
jhānaṃ. Pa . Tatiyaṃ jhānaṃ. Pa . Catutthaṃ jhānaṃ upasampajja
viharati. So kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ
upapajjati. Idaṃ vuccati bhikkhave dhammasamādānaṃ
paccuppannasukhañceva āyatiṃ ca sukhavipākaṃ. Imāni kho
bhikkhave cattāri dhammasamādānānīti.
|
Này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp
hành hiện tại lạc và tương lai quả báo cũng lạc? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có người tự tánh sanh ra không quá nặng về tham ái,
không luôn luôn cảm thọ những cảm giác khổ ưu do tham ái sanh;
có người tự tánh sanh ra không quá nặng về sân hận, không luôn
luôn cảm thọ những cảm giác khổ ưu do sân hận sanh; có người tự
tánh sanh ra không quá nặng về si mê, không luôn luôn cảm thọ
những cảm giác khổ ưu do si mê sanh. Vị ấy ly dục, ly các pháp
bất thiện chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do
ly dục sanh, có tầm có tứ; diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền
thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ,
nội tĩnh nhất tâm; ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm
lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú
Thiền thứ ba; xả lạc và xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ trước,
chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh
tịnh. Vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, được sanh thiện thú,
Thiên giới, cơi đời này. Như vậy này các Tỷ-kheo, được gọi là
pháp hành hiện tại lạc và tương lai quả báo cũng lạc. Này các
Tỷ-kheo, như vậy là bốn loại pháp hành. |
Vị ấy sau khi tách ly các dục,
tách ly các bất thiện pháp, đạt đến và trú thiền thứ nhất có tầm
có tứ có hỷ lạc sanh lên do sự tách ly; do sự vắng lặng của tầm
và tứ, đạt đến và trú thiền thứ nh́ có sự tĩnh lặng ở nội phần,
có trạng thái chuyên nhất của tâm, không tầm không tứ, có hỷ lạc
sanh lên do định; do sự không c̣n luyến ái ở hỷ, an trú xả, có
niệm và có sự nhận biết rơ, và cảm nhận lạc bằng thân, đó là
điều mà các bậc Thánh gọi là: ‘Có xả, có niệm, có sự trú vào
lạc,’ đạt đến và trú thiền thứ ba; và do sự từ bỏ lạc, do sự từ
bỏ khổ (ở thân), do sự biến mất của hỷ và ưu ở tâm (đă có) trước
đây, đạt đến và trú thiền thứ tư có sự thanh tịnh của xả và
niệm, không khổ không lạc.
|
Idamavoca Bhagavā. Attamanā
te bhikkhū Bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti.
|
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
|
Cūḷadhammasamādānasuttaṃ
niṭṭhitaṃ pañcamaṃ.
|
|
<Kinh số 044> |
<Kinh
số 046> |
|