019.
DVEDHĀVITAKKASUTTAṂ
|
019.
DVEDHĀVITAKKASUTTAṂ - Tạng Miến Điện by Ven. Khánh
Hỷ |
019. KINH SONG TẦM - HT. Thích
Minh Châu, Nguồn: Budsas 7.07 |
206. Evaṃ me
sutaṃ–ekaṃ samayaṃ Bhagavā Sāvatthiyaṃ viharati Jetavane
Anāthapiṇdikassa ārāme. Tatra kho Bhagavā bhikkhū āmantesi
“Bhikkhavo”ti. “Bhadante”ti te bhikkhū Bhagavato paccassosuṃ.
Bhagavā etadavoca– |
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế Tôn ở Savatthi
(Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp
Cô Độc). Tại đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Chư Tỷ-kheo".
--"Thưa vâng", các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết
giảng như sau:
|
Pubbeva me bhikkhave sambodhā anabhisambuddhassa
Bodhisattasseva sato etadahosi “Yaṃnūnāhaṃ dvidhā katvā dvidhā
katvā vitakke vihareyyan”ti. So kho ahaṃ bhikkhave yo cāyaṃ
kāmavitakko yo ca byāpādavitakko yo ca vihiṃsāvitakko, imaṃ ekaṃ
bhāgamakāsiṃ. Yo cāyaṃ nekkhammavitakko yo ca abyāpādavitakko yo
ca avihiṃ sāvitakko, imaṃ dutiyaṃ bhāgamakāsiṃ. |
-- Chư Tỷ-kheo, trước khi Ta
giác ngộ, khi chưa thành Chánh Giác và c̣n là Bồ-tát, Ta suy
nghĩ như sau: "Ta sống suy tư và chia hai suy tầm". Chư Tỷ-kheo,
phàm có dục tầm nào, sân tầm nào, hại tầm nào, Ta phân thành
phần thứ nhất; phàm có ly dục tầm nào, vô sân tầm nào, vô hại
tầm nào, Ta phân thành phần thứ hai.
|
207. Tassa mayhaṃ bhikkhave evaṃ appamattassa
ātāpino pahitattassa viharato uppajjati kāmavitakko. So evaṃ
pajānāmi “Uppanno kho me ayaṃ kāmavitakko, so ca kho
attabyābādhāyapi saṃvattati, parabyābādhāyapi saṃvattati,
ubhayabyābādhāyapi saṃvattati, paññānirodhiko vighātapakkhiko
anibbānasaṃvattaniko” (Anibbānasaṃvattaniko”ti
- ?). ‘Attabyābādhāya
saṃvattatī’tipi me bhikkhave paṭisañcikkhato abbhatthaṃ
gacchati, ‘Parabyābādhāya saṃvattatī’tipi me bhikkhave
paṭisañcikkhato abbhatthaṃ gacchati, ‘Ubhayabyābādhāya
saṃvattatī’tipi me bhikkhave paṭisañcikkhato abbhatthaṃ
gacchati, ‘Paññānirodhiko vighātapakkhiko
anibbānasaṃvattaniko’tipi me bhikkhave paṭisañcikkhato
abbhatthaṃ gacchati. So kho ahaṃ bhikkhave uppannuppannaṃ
kāmavitakkaṃ pajahameva (Atītakālikakiriyāpadāniyeva)
vinodameva (Atītakālikakiriyāpadāniyeva),
byantameva (Byanteva
- Sī, Syā, I)
naṃ akāsiṃ.
|
Chư Tỷ-kheo, rồi Ta sống không
phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Khi dục tầm khởi lên, Ta tuệ
tri: "Dục tầm này khởi lên nơi Ta, và dục tầm này đưa đến tự
hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, diệt trí tuệ, dự
phần vào phiền năo, không đưa đến Niết-bàn". Chư Tỷ-kheo, khi Ta
suy tư: "Dục tầm này đưa đến tự hại", dục tầm được biến mất, Chư
Tỷ-kheo, khi Ta suy tư: "Dục tầm đưa đến hại người", dục tầm
được biến mất. Chư Tỷ-kheo, khi Ta suy tư: "Dục tầm đưa đến hại
cả hai", dục tầm được biến mất. Chư Tỷ-kheo, khi Ta suy tư: "Dục
tầm diệt trí tuệ, dự phần vào phiền năo, không đưa đến
Niết-bàn", dục tầm được biến mất. Chư Tỷ-kheo, như vậy Ta tiếp
tục trừ bỏ, xả ly và đoạn tận dục tầm. |
208. Tassa
mayhaṃ bhikkhave evaṃ appamattassa ātāpino pahitattassa viharato
uppajjati byāpādavitakko. Pa . Uppajjati vihiṃ sāvitakko. So
evaṃ pajānāmi “Uppanno kho me ayaṃ vihiṃsāvitakko, so ca kho
attabyābādhāyapi saṃvattati, parabyābādhāyapi saṃvattati,
ubhayabyābādhāyapi saṃvattati, paññānirodhiko vighātapakkhiko
anibbānasaṃvattaniko”. ‘Attabyābādhāya saṃvattatī’tipi me
bhikkhave paṭisañcikkhato abbhatthaṃ gacchati, ‘Parabyābādhāya
saṃvattatī’tipi me bhikkhave paṭisañcikkhato abbhatthaṃ
gacchati, ‘Ubhayabyābādhāya saṃvattatī’tipi me bhikkhave
paṭisañcikkhato abbhatthaṃ gacchati, ‘Paññānirodhiko
vighātapakkhiko anibbānasaṃvattaniko’tipi me bhikkhave
paṭisañcikkhato abbhatthaṃ gacchati. So kho ahaṃ bhikkhave
uppannuppannaṃ vihiṃ sāvitakkaṃ pajahameva vinodameva,
byantameva naṃ akāsiṃ.
|
Chư Tỷ-kheo, trong khi Ta sống
không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sân tầm khởi lên... (như
trên)... hại tầm khởi lên. Ta tuệ tri: "Hại tầm này khởi lên nơi
Ta, và hại tầm này đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến
hại cả hai, diệt trí tuệ, dự phần vào phiền năo, không đưa đến
Niết-bàn". Chư Tỷ-kheo, khi Ta suy tư: "Hại tầm này đưa đến tự
hại"... "Hại tầm diệt trí tuệ, dự phần vào phiền năo, không đưa
đến Niết-bàn", hại tầm biến mất. Chư Tỷ-kheo, như vậy Ta tiếp
tục trừ bỏ, xả ly và đoạn tận hại tầm. |
Yaññadeva
bhikkhave bhikkhu bahulamanuvitakketi anuvicāreti, tathā tathā
nati hoti cetaso. Kāmavitakkaṃ ce bhikkhave bhikkhu
bahulamanuvitakketi anuvicāreti. Pahāsi nekkhammavitakkaṃ,
kāmavitakkaṃ bahulamakāsi. Tassa taṃ kāmavitakkāya cittaṃ
namati. Byāpādavitakkaṃ ce bhikkhave. Pa . Vihiṃ sāvitakkaṃ ce
bhikkhave bhikkhu bahulamanuvitakketi anuvicāreti. Pahāsi
avihiṃsāvitakkaṃ, vihiṃsāvitakkaṃ bahulamakāsi. Tassa taṃ
vihiṃsāvitakkāya cittaṃ namati.
|
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo suy tư,
quán sát nhiều vấn đề ǵ, thời tâm sanh khuynh hướng đối với vấn
đề ấy. Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo suy tư, quán sát nhiều về dục
tầm, vị ấy từ bỏ ly dục tầm. Khi tâm đă nặng về dục tầm, thời
tâm vị ấy có khuynh hướng về dục tầm. Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
suy tư quán sát nhiều về sân tầm... (như trên)... về hại tầm, vị
ấy từ bỏ vô hại tầm. Khi tâm đă đặt nặng về hại tầm thời tâm vị
ấy có khuynh hướng về hại tầm. |
Seyyathāpi
bhikkhave vassānaṃ pacchime māse saradasamaye kiṭṭhasambādhe
gopālako gāvo rakkheyya, so tā gāvo tato tato daṇdena ākoṭeyya
paṭikoṭeyya sannirundheyya sannivāreyya. Taṃ kissa hetu, passati
hi so bhikkhave gopālako tatonidānaṃ vadhaṃ vā bandhanaṃ vā
jāniṃ vā garahaṃ vā. Evameva kho ahaṃ bhikkhave addasaṃ
akusalānaṃ dhammānaṃ ādīnavaṃ okāraṃ saṃkilesaṃ kusalānaṃ
dhammānaṃ nekkhamme ānisaṃsaṃ vodānapakkhaṃ. |
Chư Tỷ-kheo, ví như vào cuối
tháng mùa mưa, về mùa thu, khi lúa đă trổ hạt, một người mục
đồng chăn giữ ḅ, cầm roi đánh các con ḅ bên này, đánh bên kia,
chế ngự chúng, ngăn chận chúng. V́ sao vậy? Chư Tỷ-kheo, v́
người mục đồng thấy do nhân duyên này, đưa đến sự chết, sự tù
tội, sự đánh đập hay sự trách móc. Chư Tỷ-kheo, cũng vậy, Ta đă
thấy sự nguy hại, sự hạ liệt, sự uế nhiễm của các pháp bất
thiện, và thấy sự viễn ly, sự lợi ích, sự thanh tịnh của các
thiện pháp.
|
209. Tassa mayhaṃ bhikkhave evaṃ appamattassa
ātāpino pahitattassa viharato uppajjati nekkhammavitakko. So
evaṃ pajānāmi “Uppanno kho me ayaṃ nekkhammavitakko, so ca kho
nevattabyābādhāya saṃvattati, na parabyābādhāya saṃvattati, na
ubhayabyābādhāya saṃvattati, paññāvuddhiko avighātapakkhiko
Nibbānasaṃvattaniko. Rattiṃ cepi naṃ bhikkhave anuvitakkeyyaṃ
anuvicāreyyaṃ, neva tatonidānaṃ bhayaṃ samanupassāmi. Divasaṃ
cepi naṃ bhikkhave anuvitakkeyyaṃ anuvicāreyyaṃ, neva
tatonidānaṃ bhayaṃ samanupassāmi. Rattindivaṃ cepi naṃ bhikkhave
anuvitakkeyyaṃ anuvicāreyyaṃ, neva tatonidānaṃ bhayaṃ
samanupassāmi. Api ca kho me aticiraṃ anuvitakkayato
anuvicārayato kāyo kilameyya, kāye kilante (Kilamante
- Ka) cittaṃ
ūhaññeyya, ūhate citte ārā cittaṃ samādhimhā”ti. So kho ahaṃ
bhikkhave ajjhattameva cittaṃ saṇṭhapemi sannisādemi ekodiṃ
karomi (Ekodi
karomi - I)
samādahāmi. Taṃ kissa hetu, mā me cittaṃ ūhaññī (Ugghāṭīti
- Syā, Ka; ūhanīti - I)
ti.
|
Chư Tỷ-kheo, trong khi Ta sống
không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần như vậy, khi ly dục tầm
khởi lên, Ta tuệ tri như vầy: "Ly dục tầm này khởi lên nơi Ta và
ly dục tầm này không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người,
không đưa đến hại cả hai, tăng trưởng trí tuệ, không dự phần vào
phiền năo, đưa đến Niết-bàn". Chư Tỷ-kheo, nếu ban đêm Ta suy
tư, quán sát (về ly dục tầm) không phải từ nhân duyên ấy Ta thấy
sợ hăi. Chư Tỷ-kheo, nếu ban ngày Ta suy tư, quán sát (về ly dục
tầm), không phải từ nhân duyên ấy Ta thấy sợ hăi. Chư Tỷ-kheo,
nếu ban đêm, ban ngày, Ta suy tư, quán sát (về ly dục tầm),
không phải từ nhân duyên ấy Ta thấy sợ hăi. Và Ta suy tư, quán
sát quá lâu, thân Ta có thể mệt mỏi; khi thân mệt mỏi th́ tâm bị
dao động; khi tâm bị dao động th́ tâm rất khó được định tĩnh.
Chư Tỷ-kheo, rồi tự nội thân Ta trấn an tâm, trấn tịnh tâm,
khiến được nhất tâm, khiến thành định tĩnh. V́ sao vậy? V́ để
tâm Ta khỏi dao động. |
210. Tassa
mayhaṃ bhikkhave evaṃ appamattassa ātāpino pahitattassa viharato
uppajjati abyāpādavitakko. Pa . Uppajjati avihiṃsāvitakko. So
evaṃ pajānāmi “Uppanno kho me ayaṃ avihiṃsāvitakko, so ca kho
nevattabyābādhāya saṃvattati, na parabyābādhāya saṃvattati, na
ubhayabyābādhāya saṃvattati, paññāvuddhiko avighātapakkhiko
Nibbānasaṃvattaniko. Rattiṃ cepi naṃ bhikkhave anuvitakkeyyaṃ
anuvicāreyyaṃ, neva tatonidānaṃ bhayaṃ samanupassāmi. Divasaṃ
cepi naṃ bhikkhave anuvitakkeyyaṃ anuvicāreyyaṃ, neva
tatonidānaṃ bhayaṃ samanupassāmi. Rattindivaṃ cepi naṃ bhikkhave
anuvitakkeyyaṃ anuvicāreyyaṃ, neva tatonidānaṃ bhayaṃ
samanupassāmi. Api ca kho me aticiraṃ anuvitakkayato
anuvicārayato kāyo kilameyya, kāye kilante cittaṃ ūhaññeyya,
ūhate citte ārā cittaṃ samādhimhā”ti. So kho ahaṃ bhikkhave
ajjhattameva cittaṃ saṇṭhapemi sannisādemi ekodiṃ karomi
samādahāmi. Taṃ kissa hetu, mā me cittaṃ ūhaññīti.
|
Chư Tỷ-kheo, trong khi Ta sống
không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần như vậy, khi vô sân tầm
khởi lên... (như trên)... vô hại tầm khởi lên. Ta tuệ tri như
vậy: "Vô hại tầm này khởi lên nơi Ta và vô hại tầm này không đưa
đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai,
tăng trưởng trí tuệ, không dự phần vào phiền năo, đưa đến
Niết-bàn". Chư Tỷ-kheo, nếu ban đêm... không phải từ nhân duyên
ấy, mà Ta thấy sợ hăi. Và nếu Ta suy tư, quán sát quá lâu, thân
Ta có thể mệt mỏi; khi thân mệt mỏi th́ tâm bị dao động, khi tâm
bị dao động, tâm rất khó được định tĩnh. Chư Tỷ-kheo, rồi tự nội
thân Ta trấn an tâm, trấn tịnh tâm, khiến được nhất tâm, khiến
thành định tĩnh. V́ sao vậy? V́ để tâm Ta khỏi dao động.
|
Yaññadeva bhikkhave bhikkhu bahulamanuvitakketi
anuvicāreti, tathā tathā nati hoti cetaso. Nekkhammavitakkañce
bhikkhave bhikkhu bahulamanuvitakketi anuvicāreti. Pahāsi
kāmavitakkaṃ, nekkhammavitakkaṃ bahulamakāsi. Tassa taṃ
nekkhammavitakkāya cittaṃ namati. Abyāpādavitakkañce bhikkhave.
Pa . Avihiṃsāvitakkañce bhikkhave bhikkhu bahulamanuvitakketi
anuvicāreti. Pahāsi vihiṃ sāvitakkaṃ, avihiṃ sāvitakkaṃ
bahulamakāsi. Tassa taṃ avihiṃ sāvitakkāya cittaṃ namati.
|
Chư Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo suy
tư, quán sát nhiều về vấn đề ǵ thời tâm sanh khuynh hướng đối
với vấn đề ấy. Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo suy tư, quán sát nhiều
về ly dục tầm, vị ấy từ bỏ dục tầm. Khi tâm đă đặt nặng về ly
dục tầm, tâm vị ấy có khuynh hướng về ly dục tầm. Chư Tỷ-kheo,
nếu Tỷ-kheo suy tư, quán sát nhiều về vô sân tầm... (như
trên)... nếu Tỷ-kheo suy tư, quán sát nhiều về bất hại tầm, vị
ấy từ bỏ hại tầm. Khi tâm đă đặt nặng về bất hại tầm, thời tâm
vị ấy có khuynh hướng về bất hại tầm. |
Seyyathāpi bhikkhave gimhānaṃ pacchime māse
sabbasassesu gāmantasambhatesu gopālako gāvo rakkheyya, tassa
rukkhamūlagatassa vā abbhokāsagatassa vā satikaraṇīyameva hoti
etā (Ete - Ka) gāvoti. Evamevaṃ
kho bhikkhave satikaraṇīyameva ahosi ete dhammāti. |
Chư Tỷ-kheo, ví như vào cuối
tháng hè, khi tất cả lúa gạo đă cất vào kho thóc, một người mục
đồng chăn giữ các con ḅ. Khi người mục đồng ở dưới gốc cây hay
ở ngoài trời, người ấy có thể nghĩ đến có việc cần phải làm, và
người ấy nghĩ: "Đây là những con ḅ". Chư Tỷ-kheo, cũng vậy ở
đây, có việc cần phải làm, và Ta nghĩ: "Đây là những pháp".
|
211. Āraddhaṃ
kho pana me bhikkhave vīriyaṃ ahosi asallīnaṃ, upaṭṭhitā sati
asammuṭṭhā, passaddho kāyo asāraddho, samāhitaṃ cittaṃ ekaggaṃ.
|
Chư Tỷ-kheo, Ta phát tâm dơng
mănh, tinh tấn, không có tiêu cực, niệm không tán loạn được an
trú, thân được khinh an, không có cuồng nhiệt, tâm được định
tĩnh nhất tâm.
|
So kho ahaṃ bhikkhave vivicceva kāmehi
vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ
pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja vihāsiṃ. Vitakkavicārānaṃ
vūpasamā ajjhattaṃ sampasādanaṃ cetaso ekodibhāvaṃ avitakkaṃ
avicāraṃ samādhijaṃ pītisukhaṃ dutiyaṃ jhānaṃ upasampajja
vihāsiṃ. Pītiyā ca virāgā upekkhako ca vihāsiṃ sato ca
sampajāno, sukhañca kāyena paṭisaṃvedesiṃ, yaṃ taṃ ariyā
ācikkhanti “Upekkhako satimā sukhavihārī”ti, tatiyaṃ jhānaṃ
upasampajja vihāsiṃ. Sukhassa ca pahānā dukkhassa ca pahānā
pubbeva somanassadomanassānaṃ atthaṅgamā adukkhamasukhaṃ
upekkhāsatipārisuddhiṃ catutthaṃ jhānaṃ upasampajja vihāsiṃ.
|
Chư Tỷ-kheo, Ta ly dục, ly ác,
bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ
lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Diệt tầm và tứ, Ta chứng và
trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm
không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác,
thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, Ta
chứng và an trú Thiền thứ ba. Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm
thọ trước, Ta chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc,
xả niệm thanh tịnh. |
212. So evaṃ samāhite citte parisuddhe pariyodāte
anaṅgaṇe vigatūpakkilese mudubhūte kammaniye ṭhite āneñjappatte
pubbenivāsānussatiñāṇāya cittaṃ abhininnāmesiṃ. So anekavihitaṃ
pubbenivāsaṃ anussarāmi. Seyyathidaṃ, ekampi jātiṃ. Pa . Iti
sākāraṃ sa-uddesaṃ anekavihitaṃ pubbenivāsaṃ anussarāmi. |
Với tâm định tĩnh,
thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử
dụng, vững chắc, b́nh thản như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến
túc mạng trí. Ta nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai
đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi
đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một
ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp,
nhiều hoại và thành kiếp. Ta nhớ rằng: "Tại chỗ kia, Ta có tên
như thế này, ḍng họ như thế này, giai cấp như thế này, các món
ăn như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như
thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, Ta được sanh ra tại chỗ này.
Tại chỗ này, Ta có tên như thế này, ḍng họ như thế này, giai
cấp như thế này, các món ăn như thế này, thọ khổ lạc như thế
này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ này, Ta
được sanh ra ở đây". Như vậy Ta nhớ đến nhiều đời sống quá khứ
cùng với các nét đại cương và các chi tiết.
|
Ayaṃ kho me bhikkhave rattiyā paṭhame yāme
paṭhamā vijjā adhigatā, avijjā vihatā, vijjā uppannā, tamo
vihato, āloko uppanno, yathā taṃ appamattassa ātāpino
pahitattassa viharato. |
Chư Tỷ-kheo, trong
đêm canh đầu Ta chứng được minh thứ nhất, vô minh diệt, minh
sanh; bóng tối diệt, ánh sáng sanh, trong khi Ta sống không
phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
|
213. So evaṃ
samāhite citte parisuddhe pariyodāte anaṅgaṇe vigatūpakkilese
mudubhūte kammaniye ṭhite āneñjappatte sattānaṃ cutūpapātañāṇāya
cittaṃ abhininnāmesiṃ. So dibbena cakkhunā visuddhena
atikkantamānusakena satte passāmi cavamāne upapajjamāne. Pa .
Ime vata bhonto sattā kāyaduccaritena samannāgatā. Pa . Iti
dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena satte passāmi
cavamāne upapajjamāne hīne paṇīte suvaṇṇe dubbaṇṇe sugate
duggate, yathākammūpage satte pajānāmi. |
Với tâm định tĩnh,
thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử
dụng, vững chắc, b́nh thản như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến
sanh tử trí về chúng sanh. Ta với thiên nhăn thuần tịnh siêu
nhân, thấy sự sống và sự chết của chúng sanh. Ta tuệ tri rằng,
chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu,
người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Những
chúng sanh làm những ác hạnh về thân, ác hạnh về lời nói, ác
hạnh về ư, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp
theo tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung,
phải sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. C̣n những chúng
sanh nào thành tựu những thiện hạnh về thân, thành tựu những
thiện hạnh về lời nói, thành tựu những thiện hạnh về ư, không
phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo
chánh kiến, những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được
sanh lên các thiện thú, cơi Trời, trên đời này. Như vậy với
thiên nhăn thuần tịnh siêu nhân, Ta thấy sự sống chết của chúng
sanh. Ta tuệ tri rằng, chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang,
người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do
hạnh nghiệp của họ.
|
Ayaṃ kho me bhikkhave rattiyā majjhime yāme dutiyā
vijjā adhigatā, avijjā vihatā, vijjā uppannā, tamo vihato, āloko
uppanno, yathā taṃ appamattassa ātāpino pahitattassa viharato.
|
Chư Tỷ-kheo, trong
đêm canh giữa, Ta chứng được minh thứ hai, vô minh diệt, minh
sanh; bóng tối diệt, ánh sáng sanh, trong khi Ta sống không
phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
|
214. So evaṃ samāhite citte parisuddhe pariyodāte
anaṅgaṇe vigatūpakkilese mudubhūte kammaniye ṭhite āneñjappatte
āsavānaṃ khayañāṇāya cittaṃ abhininnāmesiṃ. So “Idaṃ dukkhan”ti
yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ, “Ayaṃ dukkhasamudayo”ti yathābhūtaṃ
abbhaññāsiṃ, “Ayaṃ dukkhanirodho”ti yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ,
“Ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadā”ti yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ.
“Ime āsavā”ti yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ, “Ayaṃ āsavasamudayo”ti
yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ, “Ayaṃ āsavanirodho”ti yathābhūtaṃ
abbhaññāsiṃ, “Ayaṃ āsavanirodhagāminī paṭipadā”ti yathābhūtaṃ
abbhaññāsiṃ.
|
Với tâm định tĩnh,
thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử
dụng, vững chắc, b́nh thản như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến
lậu tận trí. Ta thắng tri như thật: "Đây là khổ", thắng tri như
thật: "Đây là nguyên nhân của khổ", thắng tri như thật: "Đây là
khổ diệt", thắng tri như thật: "Đây là con đường đưa đến khổ
diệt", thắng tri như thật: "Đây là những lậu hoặc", thắng tri
như thật: "Đây là nguyên nhân các lậu hoặc", thắng tri như thật:
"Đây là các lậu hoặc diệt", thắng tri như thật: "Đây là con
đường đưa đến các lậu hoặc diệt". |
Tassa me evaṃ jānato evaṃ passato kāmāsavāpi cittaṃ
vimuccittha, bhavāsavāpi cittaṃ vimuccittha, avijjāsavāpi cittaṃ
vimuccittha, vimuttasmiṃ “Vimuttam"iti ñāṇaṃ ahosi, “Khīṇā jāti,
vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā”ti
abbhaññāsiṃ.
|
Nhờ biết như vậy,
nhờ thấy như vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu
lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đă giải thoát như
vậy, khởi lên trí hiểu biết: Ta đă giải thoát. Ta đă thắng tri:
"Sanh đă tận, phạm hạnh đă thành, việc cần làm đă làm, không c̣n
trở lui trạng thái này nữa". |
Ayaṃ kho me bhikkhave rattiyā pacchime yāme tatiyā
vijjā adhigatā, avijjā vihatā, vijjā uppannā, tamo vihato, āloko
uppanno, yathā taṃ appamattassa ātāpino pahitattassa viharato.
|
Chư Tỷ-kheo, trong
đêm canh ba, Ta chứng được minh thứ ba, vô minh diệt, minh sanh;
bóng tối diệt, ánh sáng sanh, trong khi Ta sống không phóng dật
nhiệt tâm tinh cần. |
215.
Seyyathāpi bhikkhave araññe pavane mahantaṃ ninnaṃ pallalaṃ,
tamenaṃ mahāmigasaṅgho upanissāya vihareyya. Tassa kocideva
puriso uppajjeyya anatthakāmo ahitakāmo ayogakkhemakāmo. So
yvāssa maggo khemo sovatthiko pītigamanīyo, taṃ maggaṃ
pidaheyya, vivareyya kummaggaṃ, odaheyya okacaraṃ, ṭhapeyya
okacārikaṃ. Evaṃ hi so bhikkhave mahāmigasaṅgho aparena samayena
anayabyasanaṃ (Anayabyasanaṃ tanuttaṃ -
Sī, Syā, I) āpajjeyya. Tasseva kho pana bhikkhave mahato
migasaṅghassa kocideva puriso uppajjeyya atthakāmo hitakāmo
yogakkhemakāmo. So yvāssa maggo khemo sovatthiko pītigamanīyo,
taṃ maggaṃ vivareyya, pidaheyya kummaggaṃ, ūhaneyya okacaraṃ,
nāseyya okacārikaṃ. Evaṃ hi so bhikkhave mahāmigasaṅgho aparena
samayena vuddhiṃ virūḷhiṃ vepullaṃ āpajjeyya.
|
Chư Tỷ-kheo, giống như trong khu
rừng rậm rạp có một hồ nước lớn thâm sâu, và một đoàn nai lớn
sống gần một bên. Có một người đến, không muốn chúng được lợi
ích, không muốn chúng được hạnh phúc, không muốn chúng được an
ổn khỏi các ách nạn. Nếu có con đường nào được yên ổn, được an
toàn, đưa đến hoan hỷ, người ấy sẽ chận đóng con đường này lại,
sẽ mở con đường nguy hiểm, sẽ đặt con mồi đực, sẽ đặt con mồi
cái. Chư Tỷ-kheo, như vậy, sau một thời gian đoàn nai lớn ấy gặp
ách nạn và hao ṃn dần. Chư Tỷ-kheo, có một người đến, muốn đoàn
nai ấy được lợi ích, muốn chúng được hạnh phúc, muốn chúng được
an ổn khỏi các ách nạn. Nếu có con đường nào được yên ổn, được
an toàn, người ấy sẽ mở con đường này, sẽ đóng con đường nguy
hiểm lại, sẽ đem con mồi đực đi, sẽ hủy bỏ con mồi cái. Chư
Tỷ-kheo, như vậy đoàn nai lớn ấy sau một thời gian sẽ được tăng
trưởng, hưng thịnh, thành măn. |
Upamā kho me ayaṃ bhikkhave katā atthassa
viññāpanāya. Ayaṃ ce vettha attho. Mahantaṃ ninnaṃ pallalanti
kho bhikkhave kāmānametaṃ adhivacanaṃ. Mahāmigasaṅghoti kho
bhikkhave sattānametaṃ adhivacanaṃ. Puriso anatthakāmo ahitakāmo
ayogakkhemakāmoti kho bhikkhave mārassetaṃ pāpimato adhivacanaṃ.
Kummaggoti kho bhikkhave aṭṭhaṅgikassetaṃ micchāmaggassa
adhivacanaṃ. Seyyathidaṃ, micchādiṭṭhiyā micchāsaṅkappassa
micchāvācāya micchākammantassa micchā-ājīvassa micchāvāyāmassa
micchāsatiyā micchāsamādhissa. Okacaroti kho bhikkhave
nandīrāgassetaṃ adhivacanaṃ.
|
Chư Tỷ-kheo, Ta nói ví dụ ấy để
giải thích ư nghĩa như sau: Chư Tỷ-kheo, hồ nước lớn, thâm sâu
chỉ cho các dục. Chư Tỷ-kheo, đoàn nai lớn chỉ cho các loài hữu
t́nh. Chư Tỷ-kheo, con người không muốn chúng được lợi ích,
không muốn chúng được hạnh phúc, không muốn chúng được an ổn
khỏi các ách nạn chỉ cho ác ma. Chư Tỷ-kheo, con đường nguy hiểm
chỉ cho con đường tà đạo có tám ngành, tức là tà tri kiến, tà tư
duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định.
Chư Tỷ-kheo, con mồi đực chỉ cho hỷ và tham. |
Okacārikāti
kho bhikkhave avijjāyetaṃ adhivacanaṃ. Puriso atthakāmo hitakāmo
yogakkhemakāmoti kho bhikkhave Tathāgatassetaṃ adhivacanaṃ
Arahato Sammāsambuddhassa. Khemo maggo sovatthiko pītigamanīyoti
kho bhikkhave ariyassetaṃ aṭṭhaṅgikassa maggassa adhivacanaṃ.
Seyyathidaṃ, sammādiṭṭhiyā sammāsaṅkappassa sammāvācāya
sammākammantassa sammā-ājīvassa sammāvāyāmassa sammāsatiyā
sammāsamādhissa.
|
Chư Tỷ-kheo, con
mồi cái chỉ cho vô minh. Chư Tỷ-kheo, c̣n người muốn chúng được
lợi ích, muốn chúng được hạnh phúc, muốn chúng được an ổn khỏi
các ách nạn chỉ cho Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Con
đường yên ổn, an toàn, đưa đến hoan hỷ chỉ cho con đường Thánh
đạo Tám ngành, tức là Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ,
Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh
định. |
Iti kho
bhikkhave vivaṭo mayā khemo maggo sovatthiko pītigamanīyo,
pihito kummaggo, ūhato okacaro, nāsitā okacārikā. Yaṃ bhikkhave
Satthārā karaṇīyaṃ sāvakānaṃ hitesinā anukampakena anukampaṃ
upādāya, kataṃ vo taṃ mayā. Etāni bhikkhave rūkkhamūlāni, etāni
suññāgārāni. Jhāyatha bhikkhave mā pamādattha, mā pacchā
vippaṭisārino ahuvattha. Ayaṃ vo amhākaṃ anusāsanīti.
|
Chư Tỷ-kheo, như vậy Ta mở con
đường yên ổn, an toàn, đưa đến hoan hỷ, Ta đóng con đường nguy
hiểm, Ta mang đi con mồi đực, Ta hủy bỏ con mồi cái. Chư
Tỷ-kheo, những ǵ vị Đạo Sư cần phải làm cho các đệ tử v́ ḷng
thương tưởng họ, những điều ấy Ta đă làm, v́ ḷng thương tưởng
các Người. Chư Tỷ-kheo, đây là các gốc cây, đây là các chỗ
trống. Hăy Thiền định, chớ có phóng dật, chớ có hối tiếc về sau.
Đó là lời giáo huấn của Ta.
|
Idamavoca
Bhagavā. Attamanā te bhikkhū Bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti.
|
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn.
|
Dvedhāvitakkasuttaṃ niṭṭhitaṃ
navamaṃ.
|
|
<Kinh số 018> |
<Kinh
số 020> |
|