Trang Chính

Trang Các Bản Dịch Mới

Font VU-Times

 

TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 04

 

ĐẠI PHẨM tập I

ẤN BẢN 2013

Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda

(Đọc với font VU- Times và Acrobat Reader)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

I. CHƯƠNG TRỌNG YẾU

 

 TỤNG PHẨM THỨ NHẤT

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Uruvelā bên bờ sông Nerañjarā nơi cội cây bồ đề và vừa mới thành tựu quả vị Chánh Đẳng Giác.

 

2. Khi ấy, đức Thế Tôn đă ngồi với một tư thế kiết già ở cội cây bồ đề trong bảy ngày, hưởng niềm an lạc của sự giải thoát.

 

3. Khi ấy vào canh một của đêm, đức Thế Tôn đă suy nghiệm về sự sanh khởi tùy thuận theo điều kiện thuận chiều và nghịch chiều rằng:

 

4. “Vô minh duyên cho các hành (sanh khởi), các hành duyên cho thức (sanh khởi), thức duyên cho danh sắc (sanh khởi), danh sắc duyên cho sáu xứ (sanh khởi), sáu xứ duyên cho xúc (sanh khởi), xúc duyên cho thọ (sanh khởi), thọ duyên cho ái (sanh khởi), ái duyên cho thủ (sanh khởi), thủ duyên cho hữu (sanh khởi), hữu duyên cho sanh (sanh khởi), sanh duyên cho lăo, tử, sầu, bi, khổ, ưu, năo sanh khởi. Như thế là sự sanh khởi của toàn bộ khổ uẩn này.

 

5. Nhưng chính do sự diệt tận của vô minh hoàn toàn không c̣n tham ái (đưa đến) sự diệt tận của các hành, do sự diệt tận của các hành (đưa đến) sự diệt tận của thức, do sự diệt tận của thức (đưa đến) sự diệt tận của danh sắc, do sự diệt tận của danh sắc (đưa đến) sự diệt tận của sáu xứ, do sự diệt tận của sáu xứ (đưa đến) sự diệt tận của xúc, do sự diệt tận của xúc (đưa đến) sự diệt tận của thọ, do sự diệt tận của thọ (đưa đến) sự diệt tận của ái, do sự diệt tận của ái (đưa đến) sự diệt tận của thủ, do sự diệt tận của thủ (đưa đến) sự diệt tận của hữu, do sự diệt tận của hữu (đưa đến) sự diệt tận của sanh, do sự diệt tận của sanh (đưa đến) lăo, tử, sầu, bi, khổ, ưu, năo được diệt tận. Như thế là sự diệt tận của toàn bộ khổ uẩn này.”

 

6. Sau đó, khi đă hiểu được ư nghĩa sự việc ấy, rồi vào lúc ấy đức Thế Tôn đă thốt lên lời cảm hứng này:

 

Quả vậy, khi các pháp hiện rơ đến vị Bà-la-môn tinh cần đang tham thiền th́ tất cả điều nghi hoặc của vị ấy được rũ sạch, từ đó nhận biết rằng (mọi) việc là có nguyên nhân.”

 

7. Sau đó vào canh giữa của đêm, đức Thế Tôn đă suy nghiệm về sự sanh khởi tùy thuận theo điều kiện thuận chiều và nghịch chiều rằng: “Vô minh duyên cho các hành (sanh khởi), các hành duyên cho thức (sanh khởi), thức duyên cho danh sắc (sanh khởi), danh sắc duyên cho sáu xứ (sanh khởi), —(như trên)— Như thế là sự sanh khởi của toàn bộ khổ uẩn này. —(như trên)— là sự diệt tận (của toàn bộ khổ uẩn này).”

 

8. Sau đó, khi đă hiểu được ư nghĩa sự việc ấy, rồi chính vào lúc ấy đức Thế Tôn đă thốt lên lời cảm hứng này:

 

Quả vậy, khi các pháp hiện rơ đến vị Bà-la-môn tinh cần đang tham thiền th́ tất cả điều nghi hoặc của vị ấy được rũ sạch, từ đó đă hiểu được sự tiêu hoại của các duyên.”

 

9. Sau đó vào canh cuối của đêm, đức Thế Tôn đă suy nghiệm về sự sanh khởi tùy thuận theo điều kiện thuận chiều và nghịch chiều rằng: “Vô minh duyên cho các hành (sanh khởi), các hành duyên cho thức (sanh khởi), thức duyên cho danh sắc (sanh khởi), danh sắc duyên cho sáu xứ (sanh khởi), —(như trên)— Như thế là sự sanh khởi của toàn bộ khổ uẩn này. —(như trên)— là sự diệt tận (của toàn bộ khổ uẩn này).”

 

10. Sau đó, khi đă hiểu được ư nghĩa sự việc ấy, rồi vào lúc ấy đức Thế Tôn đă thốt lên lời cảm hứng này:

 

Quả vậy, khi các pháp hiện rơ đến vị Bà-la-môn tinh cần đang tham thiền, trong khi đánh tan binh đội của Ma Vương, (vị ấy) hiển hiện tựa như ánh mặt trời đang rọi sáng không gian.”

 

Dứt phần giảng về sự Giác Ngộ.

 

--ooOoo--

 


 

1. Sau đó khi bảy ngày trôi qua, đức Thế Tôn đă xuất khỏi định ấy rồi từ cội cây Bồ Đề đă đi đến cây si của những người chăn dê,[1] sau khi đến đă ngồi xuống với một tư thế kiết già ở cội cây si của những người chăn dê trong bảy ngày, hưởng niềm an lạc của sự giải thoát.

 

2. Khi ấy, có vị Bà-la-môn nọ thuộc nhóm chuyên luyện về âm “hum, hum” đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă tỏ vẻ thân thiện với đức Thế Tôn, sau khi trao đổi lời xă giao thân thiện rồi đă đứng ở một bên. Khi đă đứng một bên, vị Bà-la-môn ấy đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Thưa ngài Gotama, (khả năng) đến đâu (mới gọi) là Bà-la-môn? Và việc trở thành Bà-la-môn có bao nhiêu điều kiện?”

 

3. Sau khi hiểu được ư nghĩa sự việc ấy, rồi vào lúc ấy đức Thế Tôn đă thốt lên lời cảm hứng này:

 

Vị Bà-la-môn nào có ác pháp đă được ngăn trừ, là vị không làm tiếng ‘hum hum,’ đă thoát khỏi điều ô nhiễm, có bản thân đă được thu thúc, là vị thông thạo các bộ Vệ Đà, sống theo đời Phạm hạnh, vị ấy có thể thuyết giảng một cách đúng đắn lời nói của Phạm Thiên, vị ấy không có khuyết điểm về bất cứ điều ǵ ở trên thế gian.”

 

Dứt phần giảng về (cội cây si của những) người chăn dê.

 

--ooOoo--

 

 

1. Sau đó khi bảy ngày trôi qua, đức Thế Tôn đă xuất khỏi định ấy rồi từ cội cây si của những người chăn dê đă đi đến cây Mucalinda, sau khi đến đă ngồi xuống với một tư thế kiết già ở cội cây Mucalinda trong bảy ngày, hưởng niềm an lạc của sự giải thoát.

 

2. Vào lúc bấy giờ, có đám mây đen lớn sái mùa xuất hiện, có mưa tầm tă trong bảy ngày, có gió lạnh và đầy mây.

 

3. Khi ấy, rồng chúa Mucalinda đă rời khỏi chỗ ngụ của ḿnh dùng thân quấn quanh cơ thể của đức Thế Tôn bảy ṿng và phồng lớn mang rồi duy tŕ ở phía trên đầu của đức Thế Tôn (nghĩ rằng): “Chớ để đức Thế Tôn bị lạnh, chớ để đức Thế Tôn bị nóng, chớ để đức Thế Tôn bị xúc chạm bởi ruồi, muỗi, gió, nắng, và các loài ḅ sát.”

 

4. Sau đó khi bảy ngày trôi qua, rồng chúa Mucalinda sau khi biết rằng bầu trời đă trở nên trong sáng và mây đă tan nên đă nới lỏng thân khỏi cơ thể của đức Thế Tôn, rồi thay đổi h́nh dạng của chính bản thân và biến thành h́nh dạng của người thanh niên đứng ở phía trước đức Thế Tôn, tay chắp lại, bày tỏ thái độ cung kính đến đức Thế Tôn.

 

5. Sau đó, khi đă hiểu được ư nghĩa sự việc ấy, rồi vào lúc ấy đức Thế Tôn đă thốt lên lời cảm hứng này:

 

Sự sống cách ly là an lạc đối với vị hoan hỷ, đối với vị có Pháp đă được nghe, đối với vị đang xem xét. Sự không oán hận, sự chế ngự đối với các chúng sanh có mạng sống là niềm hạnh phúc ở trên đời.

 

Việc xa ĺa luyến ái, sự vượt qua các dục là niềm an lạc ở trên đời. Điều ǵ là sự thoát ra khỏi tựmăn về bản ngă, điều ấy chính là sự an lạc tối thượng.”

 

Dứt phần giảng về cây Mucalinda.

 

--ooOoo--

 

 

1. Sau đó khi bảy ngày trôi qua, đức Thế Tôn đă xuất khỏi định ấy rồi từ cội cây Mucalinda đă đi đến cây Rājāyatana, sau khi đến đă ngồi xuống với một tư thế kiết già ở cội cây Rājāyatana trong bảy ngày, hưởng niềm an lạc của sự giải thoát.

 

2. Vào lúc bấy giờ, có các thương buôn Tapassu và Bhallika đang đi đường xa từ Ukkalā đến khu vực ấy. Khi ấy, vị Thiên thần là thân quyến cùng huyết thống của các thương buôn Tapassu và Bhallika đă nói với các thương buôn Tapassu và Bhallika điều này:

 

- Này các bác, đức Thế Tôn này đang ngự ở cội cây Rājāyatana là vị đầu tiên được hoàn toàn giác ngộ. Hăy đi và bày tỏ ḷng thành kính đến đức Thế Tôn ấy với bánh bột gạo và mật viên. Điều ấy sẽ đem lại cho các bác sự lợi ích và sự an vui lâu dài.

 

3. Khi ấy, các thương buôn Tapassu và Bhallika đă mang theo bánh bột gạo và mật viên đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Khi đă đứng một bên, các thương buôn Tapassu và Bhallika đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hăy thọ lănh bánh bột gạo và mật viên của chúng tôi. Điều ấy sẽ đem lại cho chúng tôi sự lợi ích và sự an vui lâu dài.”

 

4. Khi ấy, đức Thế Tôn đă khởi ư điều này: “Các đức Như Lai không thọ lănh ở (hai) tay, vậy ta nên thọ lănh bánh bột gạo và mật viên bằng vật ǵ?” Khi ấy, bốn vị Đại Thiên Vương dùng tâm biết được ư nghĩ suy tầm của đức Thế Tôn nên đă dâng lên đức Thế Tôn bốn cái b́nh bát làm bằng đá từ ở bốn phương (nói rằng): - “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hăy thọ lănh bánh bột gạo và mật viên ở đây.” Đức Thế Tôn đă thọ lănh bánh bột gạo và mật viên trong b́nh bát mới[2] làm bằng đá, và sau khi thọ lănh đă thọ dụng.

 

5. Sau đó, các thương buôn Tapassu và Bhallika đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, chúng con đây xin đi đến nương nhờ đức Thế Tôn và Giáo Pháp. Xin đức Thế Tôn chấp nhận chúng con là các nam cư sĩ đă đă đi đến nương nhờ kể từ hôm nay cho đến trọn đời.” Và họ đă trở thành những nam cư sĩ đọc hai câu (nương nhờ)[3] đầu tiên ở thế gian.

 

Dứt phần giảng về cây Rājāyatana.

 

--ooOoo--

 

 

1. Sau đó khi bảy ngày trôi qua, đức Thế Tôn đă xuất khỏi định ấy rồi từ cội cây Rājāyatana đă đi đến cây si của những người chăn dê. Ở nơi ấy, đức Thế Tôn ngụ tại cội cây si của những người chăn dê.

 

2. Sau đó, trong khi đức Thế Tôn đang thiền tịnh ở nơi thanh vắng, có ư nghĩ suy tầm như vầy đă sanh khởi: “Pháp này đă được ta chứng ngộ là (Pháp) thâm sâu, khó lĩnh hội, khó nhận thức, thanh tịnh, cao quư, vượt trên lư luận, tinh tế, nên được hiểu biết bởi các bậc trí. Tuy nhiên, chúng sanh này có sự thỏa thích trong ngũ dục, được thỏa thích trong ngũ dục, được vui sướng trong ngũ dục. Quả vậy, đối với chúng sanh có sự thỏa thích trong ngũ dục, được thỏa thích trong ngũ dục, được vui sướng trong ngũ dục th́ vấn đề này khó lĩnh hội tức là tính chất của duyên và sự sanh khởi tùy thuận theo điều kiện. C̣n có vấn đề này c̣n khó lĩnh hội hơn nữa tức là sự yên lặng của tất cả các Hành, sự dứt bỏ tất cả mầm mống của sự tái sanh, sự diệt tận ái, sự không c̣n dục t́nh, sự tịch diệt, Niết Bàn. Hơn nữa, nếu ta thuyết giảng Giáo Pháp và những người khác không thể hiểu được ta, điều ấy sẽ đem lại sự mệt mỏi cho ta, điều ấy sẽ đem lại sự phiền toái cho ta.”

 

3. Rồi những lời kệ kỳ diệu này chưa từng được nghe trước đây trong thời quá khứ đă hiện khởi đến đức Thế Tôn:

 

(Pháp này) đă được ta chứng đắc một cách khó khăn, giờ đây khỏi phải thuyết giảng. Pháp này không dễ dàng được hiểu thấu đáo bởi những kẻ ch́m đắm trong ái dục và sân hận.

 

(Pháp này) đi ngược gịng (đời), tinh tế, thâm sâu, khó lĩnh hội, vi diệu, những kẻ thỏa thích ái dục, bị che phủ bới tăm tối dày đặc, không thể nhận thức được.”

 

4. Trong khi đắn đo cân nhắc như thế ấy, tâm của đức Thế Tôn thiên về (khuynh hướng) không ra sức nỗ lực và không thuyết giảng Giáo Pháp. Khi ấy, vị Phạm Thiên Sahampati dùng tâm biết được ư nghĩ suy tầm của đức Thế Tôn nên đă khởi ư điều này: “Như thế này th́ thế gian bị tiêu diệt! Như thế này th́ thế gian bị hủy hoại! Bởi v́ tâm của đức Như Lai, bậc A-la-hán, đấng Chánh Biến Tri thiên về (khuynh hướng) không ra sức nỗ lực và không thuyết giảng Giáo Pháp.”

 

5. Sau đó, cũng giống như người đàn ông có sức mạnh có thể duỗi ra cánh tay đă được co lại hoặc có thể co lại cánh tay đă được duỗi ra, tương tự như thế vị Phạm Thiên Sahampati đă biến mất ở cơi Phạm Thiên và hiện ra ở phía trước đức Thế Tôn. Khi ấy, Phạm Thiên Sahampati đă đắp thượng y một bên vai, quỳ đầu gối bên phải trên mặt đất, rồi chắp tay hướng về đức Thế Tôn và đă nói điều này: - “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hăy thuyết giảng Giáo Pháp, xin đấng Thiện Thệ hăy thuyết giảng Giáo Pháp. Có những hạng người sanh lên có tầm nh́n ít bị vấy bụi sẽ là những người hiểu được Giáo Pháp, (nhưng) do việc không nghe Giáo Pháp sẽ bị tha hóa.” Phạm Thiên Sahampati đă nói điều ấy, sau khi nói điều ấy c̣n nói thêm điều khác nữa:

 

Trước đây ở trong xứ Magadha đă xuất hiện pháp không thanh tịnh được nghĩ ra bởi những người có sự ô nhiễm. Xin Ngài hăy mở ra cánh cửa Bất Tử này. Hăy (để cho chúng sanh) lắng nghe Giáo Pháp đă được chứng ngộ bởi bậc vô nhiễm.

 

Như người đứng trên tảng đá ở đỉnh đầu của ngọn núi, cũng giống như người nh́n xem nhân loại ở chung quanh, hỡi bậc trí, tương tự như thế ấy Ngài hăy bước lên ṭa lâu đài được xây bằng Giáo Pháp. Hỡi bậc thông hiểu rộng, là bậc đă thoát khỏi buồn đau, xin Ngài hăy nh́n xuống xem nhân loại bị đắm ch́m trong sầu khổ, bị hành hạ bởi sự sanh và sự già.

 

Hỡi vị anh hùng, người đă chiến thắng trận đấu, xin Ngài hăy đứng lên. Hỡi người hướng dẫn đoàn xe, vị không vướng nợ nần, xin Ngài hăy du hành ở thế gian. Xin đức Thế Tôn hăy thuyết giảng Giáo Pháp, sẽ có nhiều người hiểu được.”

 

6. Khi ấy, sau khi hiểu được yêu cầu của vị Phạm Thiên, đức Thế Tôn thuận theo ḷng thương tưởng chúng sanh đă dùng Phật nhăn quán xét thế gian. Trong khi dùng Phật nhăn quán xét thế gian, đức Thế Tôn đă nh́n thấy những chúng sanh có tầm nh́n bị vấy bụi ít và có tầm nh́n bị vấy bụi nhiều, có giác quan sắc sảo và có giác quan cùn lụt, có tánh khí tốt và có tánh khí tồi, có thể hiểu được một cách nhanh chóng và có thể hiểu được một cách khó khăn, (và nh́n thấy) một số chúng sanh đang sống có sự nh́n thấy nỗi sợ hăi trong tội lỗi và (sự tái sanh vào) những đời sống khác.

 

Cũng giống như ở hồ sen xanh hoặc ở hồ sen hồng hoặc ở hồ sen trắng, có một số sen xanh, hoặc sen hồng, hoặc sen trắng được sanh ra ở trong nước, được phát triển ở trong nước, không vươn ra khỏi nước, và được nuôi dưỡng ch́m ở bên trong (nước); có một số sen xanh, hoặc sen hồng, hoặc sen trắng được sanh ra ở trong nước, được phát triển ở trong nước, sống ngang bằng mặt nước; và có một số sen xanh, hoặc sen hồng, hoặc sen trắng được sanh ra ở trong nước, được phát triển ở trong nước, vươn lên khỏi nước, và tồn tại không bị thấm nước; tương tự như thế, đức Thế Tôn trong khi dùng Phật nhăn quán xét thế gian đă nh́n thấy những chúng sanh có tầm nh́n bị vấy bụi ít và có tầm nh́n bị vấy bụi nhiều, có giác quan sắc sảo và có giác quan cùn lụt, có tánh khí tốt và có tánh khí tồi, có thể hiểu được một cách nhanh chóng và có thể hiểu được một cách khó khăn, (và nh́n thấy) một số chúng sanh đang sống có sự nh́n thấy nỗi sợ hăi trong tội lỗi và (sự tái sanh vào) những đời sống khác; sau khi nh́n thấy đă nói với vị Phạm Thiên Sahampati bằng bài kệ này:

 

Các cánh cửa Bất Tử đă được mở ra cho những người có sự lắng nghe. Hăy khiến chúng từ bỏ tà tín. Này Phạm Thiên, với suy nghĩ về việc tổn hại, ta đă không thuyết giảng Pháp cao quư tuyệt vời cho nhân loại.”

 

Khi ấy, vị Phạm Thiên Sahampati (nghĩ rằng): “Ta đă tạo ra cơ hội cho đức Thế Tôn thuyết giảng Giáo Pháp” nên đă đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, và đă biến mất ngay tại chỗ ấy.

 

Dứt phần giảng về sự thỉnh cầu của vị Phạm Thiên.

 

--ooOoo--

 

 

1. Sau đó, đức Thế tôn đă khởi ư điều này: “Ta nên thuyết giảng Giáo Pháp đến ai trước tiên? Ai sẽ hiểu được Giáo Pháp này một cách thật nhanh chóng?” Khi ấy, đức Thế tôn đă khởi ư điều này: “Vị Āḷāra Kālāma này là vị sáng trí, kinh nghiệm, thông minh, đă lâu nay có bản thể bị ít ô nhiễm, hay là ta nên thuyết giảng Giáo Pháp đến Āḷāra Kālāma trước tiên? Vị ấy sẽ hiểu được Giáo Pháp này một cách thật nhanh chóng.” Khi ấy, có vị Thiên thần không hiện h́nh đă thông báo đến đức Thế Tôn rằng: - “Bạch ngài, vị Āḷāra Kālāma đă từ trần được bảy ngày rồi.” Và trí của đức Thế Tôn cũng đă khởi lên rằng: “Vị Āḷāra Kālāma đă từ trần được bảy ngày rồi.” Khi ấy, đức Thế tôn đă khởi ư điều này: “Vị Āḷāra Kālāma thuộc hạng người cao cả, bởi v́ nếu nghe được Giáo Pháp này vị ấy có thể hiểu được một cách thật nhanh chóng.”

 

2. Sau đó, đức Thế tôn đă khởi ư điều này: “Ta nên thuyết giảng Giáo Pháp đến ai trước tiên? Ai sẽ hiểu được Giáo Pháp này một cách thật nhanh chóng?” Khi ấy, đức Thế tôn đă khởi ư điều này: “Vị Uddaka Rāmaputta này là vị sáng trí, kinh nghiệm, thông minh, đă lâu nay có bản thể bị ít ô nhiễm, hay là ta nên nên thuyết giảng Giáo Pháp đến Uddaka Rāmaputta trước tiên? Vị ấy sẽ hiểu được Giáo Pháp này một cách thật nhanh chóng.” Khi ấy, có vị Thiên thần không hiện h́nh đă thông báo đến đức Thế Tôn rằng: - “Bạch ngài, vị Uddaka Rāmaputta đă từ trần vào đêm qua.” Và trí của đức Thế Tôn cũng đă khởi lên rằng: “Vị Uddaka Rāmaputta đă từ trần vào đêm qua.” Khi ấy, đức Thế tôn đă khởi ư điều này: “Vị Uddaka Rāmaputta thuộc hạng người cao cả, bởi v́ nếu nghe được Giáo Pháp này vị ấy có thể hiểu được một cách thật nhanh chóng.”

 

3. Sau đó, đức Thế tôn đă khởi ư điều này: “Ta nên thuyết giảng Giáo Pháp đến ai trước tiên? Ai sẽ hiểu được Giáo Pháp này một cách thật nhanh chóng?” Khi ấy, đức Thế tôn đă khởi ư điều này: “Các tỳ khưu nhóm năm vị có nhiều công đức đối với ta, các vị này đă phục vụ ta trong khi bản thân ta nỗ lực tinh tấn,[4] hay là ta nên nên thuyết giảng Giáo Pháp đến các tỳ khưu nhóm năm vị trước tiên?” Khi ấy, đức Thế Tôn đă khởi ư điều này: “Giờ đây, các tỳ khưu nhóm năm vị này trú ngụ ở nơi nào?” Với Thiên nhăn thanh tịnh vượt trội loài người, đức Thế Tôn đă nh́n thấy các tỳ khưu nhóm năm vị đang trú ngụ tại thành Bārāṇasī, ở Isipatana, nơi vườn nai. Sau đó, khi đă ngự tại Uruvelā theo như ư thích, đức Thế Tôn đă ra đi du hành về phía thành Bārāṇasī.

 

4. Đạo sĩ lơa thể Upaka đă nh́n thấy đức Thế Tôn đang đi đường xa ở khoảng giữa Gayā và cội Bồ Đề, sau khi nh́n thấy đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Này đạo hữu, các giác quan của đạo hữu được trầm tĩnh, màu da được thanh tịnh và trong sáng. Này đạo hữu, v́ ai mà đạo hữu đă xuất gia? Ai là thầy của đạo hữu? Đạo hữu ưa thích pháp của vị nào?” Khi được nói như thế, đức Thế Tôn đă nói với đạo sĩ lơa thể Upaka bằng những lời kệ này:

 

- “Ta là bậc vượt trên tất cả, là người hiểu biết toàn bộ, không c̣n bị vướng mắc trong tất cả các Pháp, đă dứt bỏ tất cả, đă được giải thoát trong việc đoạn tận tham ái, sau khi tự ḿnh chứng đắc th́ ai có thể chỉ dạy (được ta)?

 

Không có ai là thầy của ta, người tương đương với ta không t́m thấy, trong thế gian luôn cả cơi trời, không có ai là đối thủ của ta.

 

Bởi v́ ta là bậc A-la-hán, bậc Vô Thượng Sư, ở trên đời. Chỉ ḿnh ta là bậc Chánh Đẳng Giác, ta có được trạng thái mát mẻ, Niết Bàn.

 

Ta đi đến thành Kāsī để chuyển vận bánh xe Giáo Pháp. Ta sẽ đánh lên tiếng trống Bất Tử ở thế gian đang bị tối tăm.”

 

- “Này đạo hữu, theo như đạo hữu cho biết th́ đạo hữu xứng đáng là bậc Chiến Thắng vô biên.”

 

(Đức Phật đáp lại rằng):

- “Này Upaka, quả vậy tương đương với ta là các các bậc Chiến Thắng đă đạt đến việc đoạn tận các lậu hoặc. Ta đă chiến thắng các ác pháp v́ thế ta là bậc Jina.”

 

5. Khi được nói như thế, đạo sĩ lơa thể Upaka đă nói rằng: - “Này đạo hữu, có thể là như vậy.” Rồi đă gục gặc cái đầu, rẽ sang con đường khác, và bỏ đi.

 

6. Sau đó, trong khi tuần tự du hành đức Thế Tôn đă ngự đến thành Bārāṇasī, Isipatana, nơi vườn nai và đă đi đến gặp các tỳ khưu nhóm năm vị. Các tỳ khưu nhóm năm vị đă nh́n thấy đức Thế Tôn từ đằng xa đang đi lại, sau khi nh́n thấy các vị đă bàn bạc với nhau rằng: - “Này các vị, Sa-môn Gotama ấy đang đi đến. Ông ta là kẻ lợi dưỡng, bỏ dở dang việc nỗ lực và đă quay trở lại cuộc sống sung túc. Ông ta không đáng để đảnh lễ, không đáng để đứng dậy chào, y bát của ông ta không đáng để đón nhận; tuy nhiên, chỗ ngồi nên được xếp đặt, nếu ông ta muốn th́ ông ta cứ việc ngồi.”

 

7. Nhưng khi đức Thế Tôn càng đi đến gần các tỳ khưu nhóm năm vị th́ các tỳ khưu nhóm năm vị ấy đă không thể tuân theo điều bàn bạc của họ nữa. Trong khi không tuân theo, họ đă đi ra tiếp đón đức Thế Tôn, một vị đă nhận lấy y bát của đức Thế Tôn, một vị đă sắp đặt chỗ ngồi, một vị đă đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Đức Thế Tôn đă ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Sau khi ngồi xuống, đức Thế Tôn đă rửa hai chân. Tuy nhiên, các vị vẫn xưng hô với đức Thế Tôn bằng tên và bằng tiếng gọi “Đạo hữu.” Khi được gọi như thế, đức Thế Tôn đă nói với các tỳ khưu nhóm năm vị điều này: - “Này các tỳ khưu, chớ xưng hô với Như Lai bằng tên và bằng tiếng gọi “Đạo hữu.” Này các tỳ khưu, Như Lai là vị A-la-hán Chánh Đẳng Giác. Này các tỳ khưu, hăy lắng tai nghe, ta sẽ chỉ dạy pháp Bất Tử đă đạt được, ta sẽ thuyết giảng Giáo Pháp. Trong khi thực hành theo như đă được chỉ dạy th́ chẳng bao lâu sau ngay trong kiếp hiện tại này, các vị nhờ vào thắng trí của ḿnh sẽ thực chứng, đạt đến, và an trú vào điểm tối thượng ấy là đích cuối cùng của Phạm hạnh, v́ mục đích này mà những người con trai của các gia đ́nh cao quư rời nhà xuất gia một cách chân chánh sống không nhà.

 

8. Khi được nói như thế, các tỳ khưu nhóm năm vị đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Này đạo hữu Gotama, thậm chí với hạnh kiểm ấy, bằng sự thực hành ấy, bằng việc theo đuổi khổ hạnh ấy c̣n không đạt đến pháp thượng nhân và sự siêu việt của tri kiến xứng đáng với bậc Thánh, c̣n giờ đây là kẻ lợi dưỡng, bỏ dở dang việc nỗ lực, và đă quay trở lại cuộc sống sung túc, làm thế nào đạo hữu lại đạt đến pháp thượng nhân và sự siêu việt của tri kiến xứng đáng với bậc Thánh?” Khi được nói như thế, đức Thế Tôn đă nói với các tỳ khưu nhóm năm vị điều này: - “Này các tỳ khưu, Như Lai không phải là kẻ lợi dưỡng, không bỏ dở dang việc nỗ lực, và đă không quay trở lại cuộc sống sung túc. Này các tỳ khưu, Như Lai là vị A-la-hán Chánh Đẳng Giác. Này các tỳ khưu, hăy lắng tai nghe, ta sẽ chỉ dạy pháp Bất Tử đă đạt được, ta sẽ thuyết giảng Giáo Pháp. Trong khi thực hành theo như đă được chỉ dạy th́ chẳng bao lâu sau ngay trong kiếp hiện tại này, các vị nhờ vào thắng trí của ḿnh sẽ thực chứng, đạt đến, và an trú vào điểm tối thượng ấy là đích cuối cùng của Phạm hạnh, v́ mục đích này mà những người con trai của các gia đ́nh cao quư rời nhà xuất gia một cách chân chánh sống không nhà.” Đến lần thứ nh́, các tỳ khưu nhóm năm vị đă nói với đức Thế Tôn điều này: ―(như trên)― Đến lần thứ nh́, đức Thế Tôn đă nói với các tỳ khưu nhóm năm vị điều này: ―(như trên)― Đến lần thứ ba, các tỳ khưu nhóm năm vị đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Này đạo hữu Gotama, thậm chí với hạnh kiểm ấy, bằng sự thực hành ấy, bằng việc theo đuổi khổ hạnh ấy c̣n không đạt đến pháp thượng nhân và sự siêu việt của tri kiến xứng đáng với bậc Thánh, c̣n giờ đây là kẻ lợi dưỡng, bỏ dở dang việc nỗ lực, và đă quay trở lại cuộc sống sung túc, làm thế nào đạo hữu lại đạt đến pháp thượng nhân và sự siêu việt của tri kiến xứng đáng với bậc Thánh?”

 

9. Khi được nói như thế, đức Thế Tôn đă nói với các tỳ khưu nhóm năm vị rằng: - “Này các tỳ khưu, các vị có nhận ra rằng điều này đă không được ta nói ra như vầy trước đây hay không?” - “Bạch ngài, điều này đúng là không có (được nói).”[5] - “Này các tỳ khưu, Như Lai là vị A-la-hán Chánh Đẳng Giác. Này các tỳ khưu, hăy lắng tai nghe, ta sẽ chỉ dạy pháp Bất Tử đă đạt được, ta sẽ thuyết giảng Giáo Pháp. Trong khi thực hành theo như đă được chỉ dạy th́ chẳng bao lâu sau ngay trong kiếp hiện tại này, các vị nhờ vào thắng trí của ḿnh sẽ thực chứng, đạt đến, và an trú vào điểm tối thượng ấy là đích cuối cùng của Phạm hạnh, v́ mục đích này mà những người con trai của các gia đ́nh cao quư rời nhà xuất gia một cách chân chánh sống không nhà.” Đức Thế Tôn đă có thể thuyết phục các tỳ khưu nhóm năm vị. Sau đó, các tỳ khưu nhóm năm vị đă lắng nghe đức Thế Tôn, đă lắng tai, đă thiết lập tâm hướng đến trí chứng ngộ. Khi ấy, đức Thế Tôn đă bảo các tỳ khưu nhóm năm vị rằng:

 

10. - “Này các tỳ khưu, đây là hai cực đoan mà bậc xuất gia không nên thực hành: Đây là sự say đắm về dục lạc trong các dục, kém cỏi, thô thiển, tầm thường, không cao thượng, không đem lại lợi ích, và đây là sự gắn bó với việc hành hạ bản thân, đau khổ, không cao thượng, không đem lại lợi ích. Này các tỳ khưu, sau khi không tiếp cận cả hai cực đoan ấy, lối thực hành trung đạo đă được Như Lai tự ḿnh giác ngộ khiến cho mắt được thấy, khiến cho trí được sáng,[6] dẫn đến tịch tịnh, thắng trí, hoàn toàn giác ngộ, Niết Bàn.

 

11. Này các tỳ khưu, lối thực hành trung đạo ấy đă được Như Lai tự ḿnh giác ngộ khiến cho mắt được thấy, khiến cho trí được sáng, dẫn đến tịch tịnh, thắng trí, hoàn toàn giác ngộ, Niết Bàn là thế nào? Đó chính là Thánh Đạo tám chi phần tức là sự hiểu biết chân chánh, suy nghĩ chân chánh, lời nói chân chánh, nghề nghiệp chân chánh, nuôi mạng chân chánh, tinh tấn chân chánh, ghi nhớ chân chánh, định tâm chân chánh.[7] Này các tỳ khưu, lối thực hành trung đạo ấy đă được Như Lai tự ḿnh giác ngộ khiến cho mắt được thấy, khiến cho trí được sáng, dẫn đến tịch tịnh, thắng trí, hoàn toàn giác ngộ, Niết Bàn.

 

12. Này các tỳ khưu, đây là Chân Lư Cao Thượng tức là sự Khổ: Sanh cũng là khổ, già cũng là khổ, bệnh cũng là khổ, chết cũng là khổ, sự gắn bó với những ǵ không ưa thích cũng là khổ, sự chia ĺa với những ǵ ưa thích cũng là khổ, không đạt được điều ước muốn cũng là khổ, một cách tóm tắt năm thủ uẩn là khổ.

 

13. Này các tỳ khưu, đây là Chân Lư Cao Thượng tức là Nguyên Nhân của Khổ. Điều ấy chính là Ái đưa đến tái sanh, liên kết với khoái lạc và say đắm, có sự thỏa thích ở nơi này nơi khác tức là: Dục Ái, Hữu Ái, Phi Hữu Ái.

 

14. Này các tỳ khưu, đây là Chân Lư Cao Thượng tức là sự Diệt Khổ. Điều ấy là sự dứt bỏ, sự dứt ra khỏi, sự giải thoát, sự không c̣n chỗ nương tựa, sự diệt tận và dứt bỏ ḷng say đắm không c̣n dư sót của chính Ái ấy.

 

15. Này các tỳ khưu, đây là Chân Lư Cao Thượng tức là sự Thực Hành theo Con Đường đưa đến sự Diệt Khổ. Đó chính là Thánh Đạo tám chi phần tức là sự hiểu biết chân chánh, suy nghĩ chân chánh, ―(như trên)― định tâm chân chánh.

 

16. Này các tỳ khưu, ta có được (Pháp) nhăn đă sanh khởi, trí đă sanh khởi, tuệ đă sanh khởi, minh đă sanh khởi, ánh sáng đă sanh khởi đối với các Pháp trước đây chưa từng được nghe: “Đây là Chân Lư Cao Thượng tức là sự Khổ.” Này các tỳ khưu, hơn nữa ta có được ―(như trên)― “Đây là Chân Lư Cao Thượng tức là sự Khổ cần được hiểu rơ.” Này các tỳ khưu, hơn nữa ta có được (Pháp) nhăn đă sanh khởi, trí đă sanh khởi, tuệ đă sanh khởi, minh đă sanh khởi, ánh sáng đă sanh khởi đối với các Pháp trước đây chưa từng được nghe: “―(như trên)― đă được hiểu rơ.”

 

17. Này các tỳ khưu, ta có được (Pháp) nhăn đă sanh khởi, trí đă sanh khởi, tuệ đă sanh khởi, minh đă sanh khởi, ánh sáng đă sanh khởi đối với các Pháp trước đây chưa từng được nghe: “Đây là Chân Lư Cao Thượng tức là Nguyên Nhân của Khổ.” Này các tỳ khưu, hơn nữa ta có được ―(như trên)― “Đây là Chân Lư Cao Thượng tức là Nguyên Nhân của Khổ cần được dứt bỏ.” Này các tỳ khưu, hơn nữa ta có được (Pháp) nhăn đă sanh khởi, trí đă sanh khởi, tuệ đă sanh khởi, minh đă sanh khởi, ánh sáng đă sanh khởi đối với các Pháp trước đây chưa từng được nghe: “―(như trên)― đă được dứt bỏ.”

 

18. Này các tỳ khưu, ta có được (Pháp) nhăn đă sanh khởi, trí đă sanh khởi, tuệ đă sanh khởi, minh đă sanh khởi, ánh sáng đă sanh khởi đối với các Pháp trước đây chưa từng được nghe: “Đây là Chân Lư Cao Thượng tức là sự Diệt Khổ.” Này các tỳ khưu, hơn nữa ta có được ―(như trên)― “Đây là Chân Lư Cao Thượng tức là sự Diệt Khổ cần được chứng ngộ.” Này các tỳ khưu, hơn nữa ta có được (Pháp) nhăn đă sanh khởi, ―(như trên)― ánh sáng đă sanh khởi đối với các Pháp trước đây chưa từng được nghe: “―(như trên)― đă được chứng ngộ.”

 

19. Này các tỳ khưu, ta có được (Pháp) nhăn đă sanh khởi, ―(như trên)― ánh sáng đă sanh khởi đối với các Pháp trước đây chưa từng được nghe: “Đây là Chân Lư Cao Thượng tức là sự Thực Hành theo Con Đường đưa đến sự Diệt Khổ.” Này các tỳ khưu, hơn nữa ta có được ―(như trên)― “Đây là Chân Lư Cao Thượng tức là sự Thực Hành theo Con Đường đưa đến sự Diệt Khổ cần được tu tập.” Này các tỳ khưu, hơn nữa ta có được (Pháp) nhăn đă sanh khởi, trí đă sanh khởi, tuệ đă sanh khởi, minh đă sanh khởi, ánh sáng đă sanh khởi đối với các Pháp trước đây chưa từng được nghe: “―(như trên)― đă được tu tập.”

 

20. Này các tỳ khưu, và cho đến khi nào tri kiến thấy đúng thực chất của ta về ba Luân (ṿng xoay) và mười hai Thể (tính chất) về Bốn Chân Lư Cao Thượng này chưa được thực sự thanh tịnh; này các tỳ khưu, cho đến khi ấy ta chưa công bố: “Ta đă hoàn toàn giác ngộ” về vô thượng Chánh Đẳng Giác ở trong thế gian tính luôn cơi của chư Thiên, cơi Ma Vương, cơi Phạm Thiên, cho đến ḍng dơi Sa-môn, Bà-la-môn, các hạng chư Thiên và loài người.

 

21. Và này các tỳ khưu, bởi v́ tri kiến thấy đúng thực chất của ta về ba Luân và mười hai Thể ở Bốn Chân Lư Cao Thượng này đă được thực sự thanh tịnh; này các tỳ khưu, khi ấy ta đă công bố: “Ta đă hoàn toàn giác ngộ” về vô thượng Chánh Đẳng Giác ở trong thế gian tính luôn cơi của chư Thiên, cơi Ma Vương, cơi Phạm Thiên, cho đến ḍng dơi Sa-môn, Bà-la-môn, các hạng chư Thiên và loài người. Hơn nữa, trí tuệ và sự thấy biết của ta đă sanh khởi: “Sự giải thoát tâm của ta là không thể thay đổi, đây là lần sanh cuối cùng, giờ đây không c̣n tái sanh nữa.”

 

22. Hơn nữa, trong khi bài kinh này được thuyết giảng, Pháp nhăn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đă sanh khởi đến đại đức Koṇḍañña: “Điều ǵ có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.”

 

23. Hơn thế nữa, khi bánh xe Pháp được chuyển vận bởi đức Thế Tôn, chư Thiên ở địa cầu đă đồn đăi lời rằng: “Bánh xe Pháp vô thượng ấy đă được đức Thế Tôn chuyển vận ở Bārāṇasī, tại Isipatana, nơi vườn nai không thể bị chuyển vận nghịch lại bởi Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên nhân, Ma Vương, Phạm Thiên, hoặc bất cứ ai ở trên đời.”

 

24. Sau khi nghe được tiếng đồn của chư Thiên ở địa cầu, chư Thiên ở cơi Tứ Đại Thiên Vương đă đồn đăi lời rằng: ―(như trên)― Sau khi nghe được tiếng đồn của chư Thiên ở cơi Tứ Đại Thiên Vương, chư Thiên ở cơi Đạo Lợi đă đồn đăi lời rằng: ―(như trên)― chư Thiên ở cơi Dạ Ma ―(như trên)― chư Thiên ở cơi Đẩu Suất ―(như trên)― chư Thiên ở cơi Hóa Lạc Thiên ―(như trên)― chư Thiên ở cơi Tha Hóa Tự Tại ―(như trên)― chư Thiên thuộc hàng Phạm Thiên đă đồn đăi lời rằng: “Bánh xe Pháp vô thượng ấy đă được đức Thế Tôn chuyển vận ở Bārāṇasī, tại Isipatana, nơi vườn nai không thể bị chuyển vận nghịch lại bởi Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên nhân, Ma Vương, Phạm Thiên, hoặc bất cứ ai ở trên đời.”

 

25. Vào thời khắc ấy, vào giây phút ấy, lời đồn đăi ấy đă đi đến các cơi trời Phạm Thiên. Và mười ngàn thế giới này đă bị lay chuyển, rung động, chấn động. Và ánh sáng tuyệt vời không thể đo lường đă hiện ra ở thế gian, vượt quá năng lực siêu phàm của chư Thiên. Khi ấy, đức Thế Tôn đă thốt lên lời cảm hứng rằng: “Koṇḍañña đă hiểu được! Koṇḍañña đă hiểu được!” Bởi thế, chính từ “Aññākoṇḍañña”[8] này đă trở thành tên gọi của đại đức Koṇḍañña.

 

26. Sau đó, khi đă thấy được Pháp, đă thành tựu được Pháp, đă hiểu được Pháp, đă thấm nhuần Pháp, hoài nghi đă không c̣n, sự lưỡng lự đă dứt hẳn, đă thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc Đạo Sư, không c̣n cần sự trợ duyên của người khác, đại đức Aññākoṇḍañña đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, con có thể xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn không? Con có thể tu lên bậc trên không?” Đức Thế Tôn đă nói rằng: - “Này tỳ khưu, hăy đến. Pháp đă khéo được thuyết giảng, hăy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.” Chính lời nói ấy đă là sự tu lên bậc trên của đại đức ấy.

 

27. Sau đó, đức Thế Tôn đă giáo huấn, đă chỉ dạy các vị tỳ khưu c̣n lại bằng bài Pháp thoại. Khi ấy, trong lúc được giáo huấn, được chỉ dạy bởi đức Thế Tôn bằng bài Pháp thoại, Pháp nhăn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đă sanh khởi đến đại đức Vappa và đại đức Bhaddiya: “Điều ǵ có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.” Khi đă thấy được Pháp, đă thành tựu được Pháp, đă hiểu được Pháp, đă thấm nhuần Pháp, hoài nghi đă không c̣n, sự lưỡng lự đă dứt hẳn, đă thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc Đạo Sư, không c̣n cần sự trợ duyên của người khác, các vị ấy đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, chúng con có thể xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn không? Chúng con có thể tu lên bậc trên không?” Đức Thế Tôn đă nói rằng: - “Này các tỳ khưu, hăy đến. Pháp đă khéo được thuyết giảng, hăy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.” Chính lời nói ấy đă là sự tu lên bậc trên của các đại đức ấy.

 

28. Sau đó, với bữa ăn đă được mang lại, đức Thế Tôn đă giáo huấn, đă chỉ dạy các vị tỳ khưu c̣n lại bằng bài Pháp thoại. Nhóm sáu vị sống bằng vật mà ba vị tỳ khưu đi khất thực và mang về.

 

29. Khi ấy, trong lúc được giáo huấn, được chỉ dạy bởi đức Thế Tôn bằng bài Pháp thoại, Pháp nhăn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đă sanh khởi đến đại đức Mahānāma và đại đức Assaji: “Điều ǵ có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.” Khi đă thấy được Pháp, đă thành tựu được Pháp, đă hiểu được Pháp, đă thấm nhuần Pháp, hoài nghi đă không c̣n, sự lưỡng lự đă dứt hẳn, đă thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc Đạo Sư, không c̣n cần sự trợ duyên của người khác, các vị ấy đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, chúng con có thể xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn không? Chúng con có thể tu lên bậc trên không?” Đức Thế Tôn đă nói rằng: - “Này các tỳ khưu, hăy đến. Pháp đă khéo được thuyết giảng, hăy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.” Chính lời nói ấy đă là sự tu lên bậc trên của các đại đức ấy.

 

30. Sau đó, đức Thế Tôn đă bảo các tỳ khưu nhóm năm vị rằng: - “Này các tỳ khưu, Sắc là Vô Ngă.[9] Này các tỳ khưu, bởi v́ nếu Sắc này là Ngă th́ Sắc này không thể đi đến bệnh hoạn và có thể đạt được ở Sắc (theo ư muốn) rằng: “Sắc của ta hăy là như vầy, Sắc của ta đừng trở thành như vầy.” Này các tỳ khưu, chính v́ Sắc là Vô Ngă do đó Sắc đi đến bệnh hoạn và không thể đạt được ở Sắc (theo ư muốn) rằng: “Sắc của ta hăy là như vầy, Sắc của ta đừng trở thành như vầy.”

 

31. Này các tỳ khưu, Thọ là Vô Ngă. Này các tỳ khưu, bởi v́ nếu Thọ này là Ngă th́ Thọ này không thể đi đến bệnh hoạn và có thể đạt được ở Thọ (theo ư muốn) rằng: “Thọ của ta hăy là như vầy, Thọ của ta đừng trở thành như vầy.” Này các tỳ khưu, chính v́ Thọ là Vô Ngă do đó Thọ đi đến bệnh hoạn và không thể đạt được ở Thọ (theo ư muốn) rằng: “Thọ của ta hăy là như vầy, Thọ của ta đừng trở thành như vầy.”

 

32. Này các tỳ khưu, Tưởng là Vô Ngă. ―(như trên)― Này các tỳ khưu, các Hành là Vô Ngă. Này các tỳ khưu, bởi v́ nếu các Hành này là Ngă th́ các Hành này không thể đi đến bệnh hoạn và có thể đạt được ở các Hành (theo ư muốn) rằng: “Các Hành của ta hăy là như vầy, các Hành của ta đừng trở thành như vầy.” Này các tỳ khưu, chính v́ các Hành là Vô Ngă do đó các Hành đi đến bệnh hoạn và không thể đạt được ở các Hành (theo ư muốn) rằng: “Các Hành của ta hăy là như vầy, các Hành của ta đừng trở thành như vầy.”

 

33. Này các tỳ khưu, Thức là Vô Ngă. Này các tỳ khưu, bởi v́ nếu Thức này là Ngă th́ Thức này không thể đi đến bệnh hoạn và có thể đạt được ở Thức (theo ư muốn) rằng: “Thức của ta hăy là như vầy, Thức của ta đừng trở thành như vầy.” Này các tỳ khưu, chính v́ Thức là Vô Ngă do đó Thức đi đến bệnh hoạn và không thể đạt được ở Thức (theo ư muốn) rằng: “Thức của ta hăy là như vầy, Thức của ta đừng trở thành như vầy.”

 

34. “Này các tỳ khưu, các vị nghĩ ǵ về Sắc ấy, là thường hay vô thường?” - “Bạch ngài, là vô thường.” - “Vậy cái ǵ (đă) là vô thường th́ cái ấy là khổ hay lạc?” - “Bạch ngài, là khổ.” - “Vậy cái ǵ (đă) là vô thường, khổ, có trạng thái thay đổi, có phải là hợp lư khi quán xét về cái ấy rằng: “Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngă của ta”?” - “Bạch ngài, điều ấy không (hợp lư).” - “Này các tỳ khưu, Thọ ―(như trên)― Tưởng ―(như trên)― các Hành ―(như trên)― Thức là thường hay vô thường?” - “Bạch ngài, là vô thường.” - “Vậy cái ǵ (đă) là vô thường th́ cái ấy là khổ hay lạc?” - “Bạch ngài, là khổ.” - Vậy cái ǵ (đă) là vô thường, khổ, có trạng thái thay đổi, có phải là hợp lư khi quán xét về cái ấy rằng: “Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngă của ta”? - “Bạch ngài, điều ấy không hợp lư.”

 

35. Này các tỳ khưu, như thế trong trường hợp này, bất cứ Sắc nào thuộc về quá khứ, hiện tại, vị lai, là trong thân, hay ngoài thân, hay thô kệch, hay vi tế, hay kém cỏi, hay cao quư, hay ở xa, hay ở gần, nên thấy được toàn bộ Sắc ấy đúng như bản chất thật sự bằng trí tuệ chân chánh (như vầy): “Cái này không phải là của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải là tự ngă của ta.” Bất cứ Thọ nào ―(như trên)― bất cứ Tưởng nào ―(như trên)― bất cứ các Hành nào ―(như trên)― bất cứ Thức nào thuộc về quá khứ, hiện tại, vị lai, là trong thân, hay ngoài thân, hay thô kệch, hay vi tế, hay kém cỏi, hay cao quư, hay ở xa hay ở gần, nên thấy được toàn bộ Thức ấy đúng như bản chất thật sự bằng trí tuệ chân chánh (như vầy): “Cái này không phải là của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải là tự ngă của ta.”

 

36. Này các tỳ khưu, trong khi thấy được như thế, vị Thánh đệ tử có sự học hỏi không c̣n hứng thú trong Sắc, không c̣n hứng thú trong Thọ, không c̣n hứng thú trong Tưởng, không c̣n hứng thú trong các Hành, không c̣n hứng thú trong Thức; trong khi không c̣n hứng thú, vị ấy không c̣n say đắm; do không c̣n say đắm vị ấy được giải thoát; trong khi được giải thoát, trí khởi lên rằng: “Đă được giải thoát.” Vị ấy biết được rằng: “Sự tái sanh đă cạn kiệt, Phạm hạnh đă sống, việc cần làm đă làm, không c̣n ǵ khác (phải làm) đối với bản thể (A-la-hán) này nữa.”

 

37. Đức Thế Tôn đă giảng về điều ấy. Các tỳ khưu nhóm năm vị đă vô cùng hoan hỷ với lời dạy của đức Thế Tôn. Hơn thế nữa, trong khi bài kinh này được thuyết giảng, các tâm của các tỳ khưu nhóm năm vị đă không c̣n chấp thủ và đă được giải thoát khỏi các lậu hoặc.

 

38. Vào lúc bấy giờ, trên thế gian có sáu vị A-la-hán.

 

Tụng phẩm thứ nhất.

 

--ooOoo--

 

 TỤNG PHẨM THỨ NH̀

 

1. Vào lúc bấy giờ, ở Bārāṇasī có người con trai gia đ́nh danh giá tên Yasa, là con trai nhà đại phú, có vóc dáng mảnh mai. Chàng trai có ba ṭa lâu đài: một dành cho mùa lạnh, một dành cho mùa nóng, một dành cho mùa mưa. Vào bốn tháng mùa mưa ở trong ṭa lâu đài dành cho mùa mưa, trong lúc được phục vụ bởi các nữ công tấu nhạc, chàng không bước xuống phía dưới của ṭa lâu đài.

 

2. Khi ấy, trong lúc được phú cho, được thừa hưởng, được phục vụ bởi năm phần dục lạc,[10] người con trai gia đ́nh danh giá Yasa đă nằm xuống ngủ trước rồi sau đó đám hầu thiếp mới nằm xuống ngủ. Và cây đèn dầu được đốt trọn đêm.

 

3. Khi ấy, người con trai gia đ́nh danh giá Yasa đă thức dậy trước và đă nh́n thấy đám hầu thiếp của ḿnh đang ngủ, cây đàn ở khuỷu tay của nàng nọ, cái trống con ở cổ của nàng kia, cái trống ở đùi của nàng khác, nàng nọ có (đầu tóc) xổ ra, nàng kia nhễu nước dăi, các nàng khác th́ nói lảm nhảm, chàng nghĩ rằng băi tha ma đă đến ở trong tầm tay. Sau khi nh́n thấy, chàng trai đă thấy rơ được điều bất lợi và đă thiết lập tâm ở sự chán nản.

 

4. Khi ấy, người con trai gia đ́nh danh giá Yasa đă thốt lên lời cảm thán rằng: “Thật là chán nản! Thật là khổ sở!”

 

5. Sau đó, người con trai gia đ́nh danh giá Yasa đă mang vào đôi hài bằng vàng và đi đến cánh cửa lớn của dinh thự. Các phi nhân đă mở cánh cửa ra (nghĩ rằng): “Chớ có ai gây trở ngại đến việc rời nhà xuất gia sống không nhà của người con trai gia đ́nh danh giá Yasa.”

 

6. Sau đó, người con trai gia đ́nh danh giá Yasa đă đi đến cổng thành phố. Các phi nhân đă mở cánh cửa ra (nghĩ rằng): “Chớ có ai gây trở ngại đến việc rời nhà xuất gia sống không nhà của người con trai gia đ́nh danh giá Yasa.”

 

7. Sau đó, người con trai gia đ́nh danh giá Yasa đă đi đến Isipatana, chỗ vườn nai. Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn sau khi thức dậy vào lúc hừng sáng của đêm đang đi kinh hành ở ngoài trời. Đức Thế Tôn đă nh́n thấy người con trai gia đ́nh danh giá Yasa từ đằng xa đang đi lại, sau khi nh́n thấy đă rời đường kinh hành và ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, ở không xa đức Thế Tôn lắm người con trai gia đ́nh danh giá Yasa đă thốt lên lời cảm thán rằng: “Thật là chán nản! Thật là khổ sở!”

 

8. Khi ấy, đức Thế Tôn đă nói với người con trai gia đ́nh danh giá Yasa điều này: - “Này Yasa, việc này không chán nản, việc này không khổ sở. Này Yasa, hăy đến và ngồi xuống. Ta sẽ thuyết giảng Giáo Pháp cho ngươi.” Khi ấy, người con trai gia đ́nh danh giá Yasa (nghĩ rằng): “Nghe nói việc này không chán nản, việc này không khổ sở” nên mừng rỡ phấn chấn rồi đă cởi ra đôi hài bằng vàng và đi đến gần đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đă thuyết Pháp theo thứ lớp đến người con trai gia đ́nh danh giá Yasa đang ngồi một bên. Tức là Ngài đă giảng giải bài thuyết về bố thí, bài thuyết về giới cấm, bài thuyết về cơi trời, sự ô nhiễm hạ liệt tai hại của các dục, sự lợi ích của việc xuất ly. Khi đức Thế Tôn biết được người con trai gia đ́nh danh giá Yasa có tâm đă sẵn sàng, dễ uốn nắn, không c̣n chướng ngại, hướng thượng, tịnh tín, Ngài đă phô bày Pháp thuyết giảng đă được chư Phật khai mở là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng giống như tấm vải sạch chưa bị vết nhơ có thể nhuộm màu một cách toàn vẹn; tương tự như thế, ngay tại chỗ ngồi ấy Pháp nhăn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đă sanh khởi đến người con trai gia đ́nh danh giá Yasa: “Điều ǵ có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.”

 

9. Sau đó, mẹ của người con trai gia đ́nh danh giá Yasa đă đi lên ṭa lâu đài và không thấy người con trai gia đ́nh danh giá Yasa nên đă đi đến gặp người gia chủ đại phú, sau khi đến đă nói với người gia chủ đại phú điều này: - “Gia chủ ơi, không có nh́n thấy con trai ông là Yasa.” Khi ấy, người gia chủ đại phú đă phân công cho các sứ giả phi ngựa bốn phương, c̣n chính bản thân đă đi đến Isipatana, chỗ vườn nai. Người gia chủ đại phú đă nh́n thấy dấu vết in (xuống đất) của đôi hài bằng vàng, sau khi nh́n thấy đă đi theo chính dấu vết ấy. Đức Thế Tôn đă nh́n thấy người gia chủ đại phú từ đằng xa đang đi lại, sau khi nh́n thấy đức Thế Tôn đă khởi ư điều này: “Hay là ta nên thi triển thần thông để cho người gia chủ đại phú ngồi ở đây không thể nh́n thấy người con trai gia đ́nh danh giá Yasa đang ngồi ở đây.” Rồi đức Thế Tôn đă thi triển thần thông như thế ấy.

 

10. Sau đó, người gia chủ đại phú đă đi đến gần đức Thế Tôn, sau khi đến đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, vậy chớ đức Thế Tôn có thể nh́n thấy người con trai gia đ́nh danh giá Yasa không?” - “Này gia chủ, như thế th́ ông hăy ngồi xuống đi. Có lẽ khi ông ngồi xuống ở đây, ông có thể nh́n thấy người con trai gia đ́nh danh giá Yasa đang ngồi ở đây.”

 

11. Khi ấy, người gia chủ đại phú (nghĩ rằng): “Nghe nói khi ta ngồi xuống ở chính nơi đây, ta sẽ nh́n thấy người con trai gia đ́nh danh giá Yasa đang ngồi ở đây” nên mừng rỡ phấn chấn rồi đă đảnh lễ đức Thế Tôn và ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đă thuyết Pháp theo thứ lớp đến người gia chủ đại phú đang ngồi một bên. ―(như trên)― không c̣n cần sự trợ duyên của người khác, (người gia chủ đại phú) đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, giống như người có thể lật ngửa vật đă được úp lại, mở ra vật đă bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): “Những người có mắt sẽ nh́n thấy được các h́nh dáng;” tương tự như thế, Pháp đă được đức Thế Tôn giảng rơ bằng nhiều phương tiện. Bạch ngài, con đây xin đi đến nương nhờ đức Thế Tôn, Giáo Pháp, và Hội chúng tỳ khưu. Xin đức Thế Tôn chấp nhận con là nam cư sĩ đă đi đến nương nhờ kể từ hôm nay cho đến trọn đời. Và ông ta đă trở thành vị nam cư sĩ đọc ba câu[11] đầu tiên ở thế gian.

 

12. Sau đó, khi đang được giảng giải Giáo Pháp và trong khi quán sát bản chất như đă được thấy như đă được biết, tâm của người cha của người con trai gia đ́nh danh giá Yasa đă không c̣n chấp thủ và đă được giải thoát khỏi các lậu hoặc. Khi ấy, đức Thế Tôn đă khởi ư điều này: “Khi đang được giảng giải Giáo Pháp và trong khi quán sát bản chất như đă được thấy như đă được biết, tâm của người cha của người con trai gia đ́nh danh giá Yasa đă không c̣n chấp thủ và đă được giải thoát khỏi các lậu hoặc. C̣n người con trai gia đ́nh danh giá Yasa không thể nào quay trở lại đời sống thấp kém để thọ hưởng các dục lạc giống như trước đây khi c̣n ở tại gia, hay là ta nên thu hồi sự thi triển thần thông ấy?”

 

13. Sau đó, đức Thế Tôn đă thu hồi sự thi triển thần thông ấy. Người gia chủ đại phú đă nh́n thấy người con trai gia đ́nh danh giá Yasa đang ngồi, sau khi nh́n thấy đă nói với người con trai gia đ́nh danh giá Yasa điều này: - “Này Yasa yêu quư, mẹ của con đă phải than văn và sầu muộn. Hăy đem lại cho mẹ cuộc sống.”

 

14. Khi ấy, người con trai gia đ́nh danh giá Yasa đă ngước nh́n đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn đă nói với người gia chủ đại phú điều này: - “Này gia chủ, ngươi nghĩ ǵ về việc ấy (là việc) người con trai gia đ́nh danh giá Yasa đă thấy đă biết được Pháp bằng trí của vị hữu học, bằng sự hiểu biết của vị hữu học cũng giống ngươi vậy? Chàng trai ấy trong khi quán sát bản chất như đă được thấy như đă được biết, tâm đă không c̣n chấp thủ và đă được giải thoát khỏi các lậu hoặc. Này gia chủ, có thể nào Yasa quay trở lại đời sống thấp kém để thọ hưởng các dục lạc giống như trước đây khi c̣n ở tại gia hay không?” - “Bạch ngài, điều ấy không thể nào.” - “Này gia chủ, người con trai gia đ́nh danh giá Yasa đă thấy đă biết được Pháp bằng trí của vị hữu học, bằng sự hiểu biết của vị hữu học cũng giống ngươi vậy. Chàng trai ấy trong khi quán sát bản chất như đă được thấy như đă được biết, tâm đă không c̣n chấp thủ và đă được giải thoát khỏi các lậu hoặc. Này gia chủ, Yasa không thể nào quay trở lại đời sống thấp kém để thọ hưởng các dục lạc giống như trước đây khi c̣n ở tại gia.”

 

15. - “Bạch ngài, thật là lợi ích cho người con trai gia đ́nh danh giá Yasa! Thật khéo thành tựu cho người con trai gia đ́nh danh giá Yasa! Như là việc tâm của người con trai gia đ́nh danh giá Yasa đă không c̣n chấp thủ và đă được giải thoát khỏi các lậu hoặc. Bạch ngài, xin đức Thế Tôn nhận lời con về bữa thọ trai ngày mai cùng với người con trai gia đ́nh danh giá Yasa làm Thị giả. Đức Thế Tôn đă nhận lời bằng thái độ im lặng.

 

16. Khi ấy, người gia chủ đại phú hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn nên đă từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi. Sau đó, khi người gia chủ đại phú ra đi không lâu, người con trai gia đ́nh danh giá Yasa đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, con có thể xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn không? Con có thể tu lên bậc trên không?” Đức Thế Tôn đă nói rằng: - “Này tỳ khưu, hăy đến. Pháp đă khéo được thuyết giảng, hăy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.” Chính lời nói ấy đă là sự tu lên bậc trên của đại đức ấy.

 

Vào lúc bấy giờ, trên thế gian có bảy vị A-la-hán.

 

Dứt sự xuất gia của Yasa.

 

--ooOoo--

 

 

1. Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đă mặc y, cầm y bát, đi đến tư gia của người gia chủ đại phú cùng với đại đức Yasa làm thị giả, sau khi đến đă ngồi xuống chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, người mẹ và người vợ cũ của đại đức Yasa đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đă thuyết Pháp theo thứ lớp đến các người nữ ấy. Tức là Ngài đă giảng giải bài thuyết về bố thí, bài thuyết về giới cấm, bài thuyết về cơi trời, sự ô nhiễm hạ liệt tai hại của các dục, và sự lợi ích của việc xuất ly. Khi đức Thế Tôn biết được các người nữ ấy có tâm đă sẵn sàng, dễ uốn nắn, không c̣n chướng ngại, hướng thượng, tịnh tín, Ngài đă phô bày Pháp thuyết giảng đă được chư Phật khai mở là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng giống như tấm vải sạch chưa bị vết nhơ có thể nhuộm màu một cách toàn vẹn; tương tự như thế, ngay tại chỗ ngồi ấy Pháp nhăn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đă sanh khởi đến các người nữ ấy: “Điều ǵ có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.” Sau đó, khi đă thấy được Pháp, đă thành tựu được Pháp, đă hiểu được Pháp, đă thấm nhuần Pháp, hoài nghi đă không c̣n, sự lưỡng lự đă dứt hẳn, đă thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc Đạo Sư, không c̣n cần sự trợ duyên của người khác, các người nữ ấy đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, thật là tuyệt vời! ―(như trên)― Bạch ngài, chúng con đây xin đi đến nương nhờ đức Thế Tôn, Giáo Pháp, và Hội chúng tỳ khưu. Xin đức Thế Tôn chấp nhận chúng con là các nữ cư sĩ đă đi đến nương nhờ kể từ hôm nay cho đến trọn đời. Và các người nữ ấy đă trở thành những nữ cư sĩ đọc ba câu đầu tiên ở thế gian.

 

2. Sau đó, khi đă tự tay làm hài ḷng và toại ư đức Thế Tôn và đại đức Yasa với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm, đến khi đức Thế Tôn đă thọ thực xong bàn tay đă rời khỏi b́nh bát, người mẹ người cha và người vợ cũ của đại đức Yasa đă ngồi xuống ở một bên. Khi ấy, đức Thế Tôn đă chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho người mẹ người cha và người vợ cũ của đại đức Yasa bằng bài Pháp thoại, rồi đă từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.

 

3. Bốn người bạn tại gia của đại đức Yasa (tên) Vimala, Subāhu, Puṇṇaji, Gavampati là những người con trai của các gia đ́nh đại phú và khá giả ở thành Bārāṇasī đă nghe được rằng: “Nghe nói người con trai gia đ́nh danh giá Yasa đă cạo bỏ râu tóc, khoác lên các tấm vải màu ca-sa, và rời nhà xuất gia sống không nhà.” Sau khi nghe, các người ấy đă khởi ư điều này: “Pháp và Luật ấy chắc chắn không phải là tầm thường! Việc xuất gia ấy không phải là tầm thường khi mà người con trai gia đ́nh danh giá Yasa đă cạo bỏ râu tóc, khoác lên các tấm vải màu ca-sa, và rời nhà xuất gia sống không nhà!” Các người ấy đă đi đến gặp đại đức Yasa, sau khi đến đă đảnh lễ đại đức Yasa rồi đứng ở một bên. Khi ấy, đại đức Yasa đă dẫn bốn người bạn tại gia ấy đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, đại đức Yasa đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, bốn người bạn tại gia này của con (tên) Vimala, Subāhu, Puṇṇaji, Gavampati là những người con trai của các gia đ́nh đại phú và khá giả ở thành Bārāṇasī. Xin đức Thế Tôn hăy giáo huấn và chỉ dạy cho những người này.”

 

4. Đức Thế Tôn đă thuyết Pháp theo thứ lớp đến những người ấy. Tức là Ngài đă giảng giải bài thuyết về bố thí, bài thuyết về giới cấm, bài thuyết về cơi trời, sự ô nhiễm hạ liệt tai hại của các dục, và sự lợi ích của việc xuất ly. Khi đức Thế Tôn biết được những người ấy có tâm đă sẵn sàng, dễ uốn nắn, không c̣n chướng ngại, hướng thượng, tịnh tín, Ngài đă phô bày Pháp thuyết giảng đă được chư Phật khai mở là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng giống như tấm vải sạch chưa bị vết nhơ có thể nhuộm màu một cách toàn vẹn; tương tự như thế, ngay tại chỗ ngồi ấy Pháp nhăn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đă sanh khởi đến những người ấy: “Điều ǵ có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.” Sau đó, khi đă thấy được Pháp, đă thành tựu được Pháp, đă hiểu được Pháp, đă thấm nhuần Pháp, hoài nghi đă không c̣n, sự lưỡng lự đă dứt hẳn, đă thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc Đạo Sư, không c̣n cần sự trợ duyên của người khác, những người ấy đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, chúng con có thể xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn không? Chúng con có thể tu lên bậc trên không?”

 

Đức Thế Tôn đă nói rằng: - “Này các tỳ khưu, hăy đến. Pháp đă khéo được thuyết giảng, hăy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.”

 

Chính lời nói ấy đă là sự tu lên bậc trên của các đại đức ấy. Sau đó, đức Thế Tôn đă giáo huấn, đă chỉ dạy cho các vị tỳ khưu ấy bằng bài Pháp thoại. Trong khi được giáo huấn, được chỉ dạy bởi đức Thế Tôn bằng bài Pháp thoại, tâm của các vị ấy đă không c̣n chấp thủ và đă được giải thoát khỏi các lậu hoặc.

 

Vào lúc bấy giờ, trên thế gian có mười một vị A-la-hán.

 

Dứt sự xuất gia của bốn người bạn tại gia.

 

--ooOoo--

 

 

1.Những người bạn tại gia của đại đức Yasa có số lượng năm mươi (người) là những người con trai của các gia đ́nh đầu tiên hoặc kế tục trong xứ sở đă nghe rằng: “Nghe nói người con trai gia đ́nh danh giá Yasa đă cạo bỏ râu tóc, khoác lên các tấm vải màu ca-sa, và rời nhà xuất gia sống không nhà.” Sau khi nghe, các người ấy đă khởi ư điều này: “Pháp và Luật ấy chắc chắn không phải là tầm thường! Việc xuất gia ấy không phải là tầm thường khi mà người con trai gia đ́nh danh giá Yasa đă cạo bỏ râu tóc, khoác lên các tấm vải màu ca-sa, và rời nhà xuất gia sống không nhà!” Các người ấy đă đi đến gặp đại đức Yasa, sau khi đến đă đảnh lễ đại đức Yasa rồi đứng ở một bên. Khi ấy, đại đức Yasa đă dẫn các người bạn tại gia có số lượng là năm mươi (người) ấy đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, đại đức Yasa đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, những người bạn tại gia này của con có số lượng năm mươi (người) là những người con trai của các gia đ́nh đầu tiên hoặc kế tục trong xứ sở. Xin đức Thế Tôn hăy giáo huấn và chỉ dạy cho những người này.”

 

2. Đức Thế Tôn đă thuyết Pháp theo thứ lớp đến những người ấy. Tức là Ngài đă giảng giải bài thuyết về bố thí, bài thuyết về giới cấm, bài thuyết về cơi trời, sự ô nhiễm hạ liệt tai hại của các dục, và sự lợi ích của việc xuất ly. ―(như trên)― Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng giống như tấm vải sạch chưa bị vết nhơ có thể nhuộm màu một cách toàn vẹn; tương tự như thế, ngay tại chỗ ngồi ấy Pháp nhăn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đă sanh khởi đến những người ấy: “Điều ǵ có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.” Sau đó, khi đă thấy được Pháp, đă thành tựu được Pháp, đă hiểu được Pháp, đă thấm nhuần Pháp, hoài nghi đă không c̣n, sự lưỡng lự đă dứt hẳn, đă thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc Đạo Sư, không c̣n cần sự trợ duyên của người khác, những người ấy đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, chúng con có thể xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn không? Chúng con có thể tu lên bậc trên không?” Đức Thế Tôn đă nói rằng: - “Này các tỳ khưu, hăy đến. Pháp đă khéo được thuyết giảng, hăy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.” Chính lời nói ấy đă là sự tu lên bậc trên của đại đức ấy. Sau đó, đức Thế Tôn đă giáo huấn, đă chỉ dạy cho các vị tỳ khưu ấy bằng bài Pháp thoại. Trong lúc được giáo huấn, được chỉ dạy bởi đức Thế Tôn bằng bài Pháp thoại, tâm của các vị ấy đă không c̣n chấp thủ và đă được giải thoát khỏi các lậu hoặc.

 

Vào lúc bấy giờ, trên thế gian có sáu mươi mốt vị A-la-hán.

 

3. Sau đó, đức Thế Tôn đă bảo các vị tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta đă thoát khỏi tất cả các sự trói buộc thuộc về cơi trời và loài người. Này các tỳ khưu, các ngươi cũng đă thoát khỏi tất cả các sự trói buộc thuộc về cơi trời và loài người. Này các tỳ khưu, hăy cất bước du hành v́ lợi ích của nhiều người, v́ an lạc của nhiều người, v́ ḷng thương xót thế gian, v́ sự tiến hóa, sự lợi ích, sự an vui của chư Thiên và nhân loại, chớ đi hai người chung một (đường). Này các tỳ khưu, hăy thuyết giảng Giáo Pháp toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, và toàn hảo ở đoạn kết, thành tựu về ư nghĩa, thành tựu về văn tự, giảng giải về Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn và đầy đủ. Có những hạng người sanh lên bị ít ô nhiễm sẽ là những người hiểu được Giáo Pháp, (nhưng) do việc không nghe Giáo Pháp sẽ bị tha hóa. Này các tỳ khưu, ta cũng sẽ đi đến ngôi làng của Senāni ở Uruvelā cho việc thuyết giảng Giáo Pháp.”

 

4. Sau đó, Ma Vương tội lỗi đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă nói với đức Thế Tôn bằng những lời kệ này:

 

- “Ngài đă bị trói buộc bởi tất cả các sự trói buộc thuộc về cơi trời và loài người. Ngài đă bị trói buộc bởi sự trói buộc lớn lao. Này vị Sa-môn, Ngài không thoát khỏi ta!”

 

 (Đức Thế Tôn đáp lại rằng):

- “Ta đă được thoát khỏi tất cả các sự trói buộc thuộc về cơi trời và loài người. Ta đă được thoát khỏi sự trói buộc lớn lao. Này kẻ gây tử vong, ngươi đă bị thua rồi.”

 

- “Có sự di chuyển ở khoảng không, sự trói buộc này hoạt động ở trong tâm. Ta sẽ trói buộc ngài lại bằng vật ấy. Này vị Sa-môn, ngài không thoát khỏi ta!

 

- “Các sắc, các thinh, các hương, các vị, và các xúc là các niềm thích thú của tâm. Sự mong muốn của ta ở điều ấy đă không c̣n. Này kẻ gây tử vong, ngươi đă bị thua rồi.”

 

Khi ấy, Ma Vương tội lỗi (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đă nhận ra ta rồi! Đấng Thiện Thệ đă nhận ra ta rồi!” nên xấu hổ, bực bội, rồi đă biến mất ngay tại chỗ ấy.

 

Dứt phần giảng về Ma Vương là phần thứ mười một.

 

--ooOoo--

 

 

1. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu thuộc nhiều phương khác nhau, thuộc nhiều xứ sở khác nhau đă dẫn theo những người có ư muốn xuất gia, những người có ư muốn tu lên bậc trên, (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn sẽ cho họ xuất gia, sẽ cho họ tu lên bậc trên.” Trong trường hợp ấy, chính các vị tỳ khưu luôn cả những người có ư muốn xuất gia và những người có ư muốn tu lên bậc trên đều mệt nhọc. Khi ấy, đức Thế Tôn trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng, có ư nghĩ suy tầm như vầy đă sanh khởi: “Hiện nay, các vị tỳ khưu thuộc nhiều phương khác nhau, thuộc nhiều xứ sở khác nhau đă dẫn theo những người có ư muốn xuất gia, những người có ư muốn tu lên bậc trên, (nghĩ rằng): ‘Đức Thế Tôn sẽ cho họ xuất gia và sẽ cho họ tu lên bậc trên.’ Trong trường hợp ấy, chính các vị tỳ khưu luôn cả những người có ư muốn xuất gia và những người có ư muốn tu lên bậc trên đều mệt nhọc; hay là ta nên cho phép các vị tỳ khưu rằng: ‘Này các tỳ khưu, kể từ nay ở trong mọi phương ở trong mọi xứ sở, chính các ngươi hăy cho xuất gia, hăy cho tu lên bậc trên.’”

 

2. Sau đó vào lúc chiều tối, đức Thế Tôn đă xuất khỏi thiền tịnh rồi nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă triệu tập hội chúng tỳ khưu lại, đă thuyết Pháp thoại, rồi đă bảo các vị tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ở đây trong lúc ta thiền tịnh ở nơi thanh vắng, có ư nghĩ suy tầm như vầy đă sanh khởi: ‘Hiện nay, các vị tỳ khưu thuộc nhiều phương khác nhau, thuộc nhiều xứ sở khác nhau đă dẫn theo những người có ư muốn xuất gia, những người có ư muốn tu lên bậc trên, (nghĩ rằng): ‘Đức Thế Tôn sẽ cho họ xuất gia, sẽ cho họ tu lên bậc trên.’ Trong trường hợp ấy, chính các vị tỳ khưu luôn cả những người có ư muốn xuất gia và những người có ư muốn tu lên bậc trên đều mệt nhọc; hay là ta nên cho phép các vị tỳ khưu rằng: ‘Này các tỳ khưu, kể từ nay ở trong mọi phương ở trong mọi xứ sở, chính các ngươi hăy cho xuất gia, hăy cho tu lên bậc trên.’”

 

3. Này các tỳ khưu, ta cho phép ‘kể từ nay ở trong mọi phương ở trong mọi xứ sở, chính các ngươi hăy cho xuất gia, hăy cho tu lên bậc trên.’ Và này các tỳ khưu, nên cho xuất gia như vầy, nên cho tu lên bậc trên như vầy: Trước tiên, nên bảo cạo bỏ râu tóc, bảo khoác lên các tấm vải màu ca-sa, bảo đắp thượng y một bên vai, bảo đảnh lễ ở chân các vị tỳ khưu, bảo ngồi chồm hổm, bảo chắp tay lên, và nên bảo rằng: “Ngươi hăy nói như vầy:

 

Tôi đi đến đức Phật là nơi nương nhờ (Tôi xin quy y Phật).

Tôi đi đến Giáo Pháp là nơi nương nhờ (Tôi xin quy y Pháp).

Tôi đi đến Hội Chúng là nơi nương nhờ (Tôi xin quy y Tăng).[12]

 

Lần thứ nh́, tôi đi đến đức Phật là nơi nương nhờ.

Lần thứ nh́, tôi đi đến Giáo Pháp là nơi nương nhờ.

Lần thứ nh́, tôi đi đến Hội Chúng là nơi nương nhờ.

 

Lần thứ ba, tôi đi đến đức Phật là nơi nương nhờ.

Lần thứ ba, tôi đi đến Giáo Pháp là nơi nương nhờ.

Lần thứ ba, tôi đi đến Hội Chúng là nơi nương nhờ.”

 

Này các tỳ khưu, ta cho phép sự xuất gia, sự tu lên bậc trên bằng ba sự đi đến nương nhờ này.

 

Dứt phần giảng về sự xuất gia, sự tu lên bậc trên bằng ba sự đi đến nương nhờ là phần thứ mười hai.

 

--ooOoo--

 

 

1. Sau đó, khi đă sống qua mùa mưa, đức Thế Tôn đă bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta có các sự tác ư đúng đắn, có các sự tinh tấn chân chánh đúng đắn, đă đạt đến sự giải thoát vô thượng, đă chứng ngộ sự giải thoát vô thượng. Này các tỳ khưu, ngay cả các ngươi cũng có các sự tác ư đúng đắn, có các sự tinh tấn chân chánh đúng đắn, (các ngươi) hăy đạt đến sự giải thoát vô thượng, hăy chứng ngộ sự giải thoát vô thượng.”

 

2. Sau đó, Ma Vương tội lỗi đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă nói với đức Thế Tôn bằng bài kệ này:

 

- “Ngài đă bị trói buộc bởi tất cả các sự trói buộc thuộc về cơi trời và loài người. Ngài đă bị trói buộc bởi sự trói buộc của tử thần. Này vị Sa-môn, Ngài không thoát khỏi ta!”

 

(Đức Thế Tôn đáp lại rằng):

- “Ta đă được thoát khỏi tất cả các sự trói buộc thuộc về cơi trời và loài người. Ta đă được thoát khỏi sự trói buộc của tử thần. Này kẻ gây tử vong, ngươi đă bị thua rồi.”

 

Khi ấy, Ma Vương tội lỗi (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đă nhận ra ta rồi! Đấng Thiện Thệ đă nhận ra ta rồi!” nên xấu hổ, bực bội, rồi đă biến mất ngay tại chỗ ấy.

 

3. Sau đó, khi đă ngự tại thành Bārāṇasī theo như ư thích, đức Thế Tôn đă ra đi du hành về phía Uruvelā. Khi ấy, đức Thế Tôn đă rời đường lộ đi đến khu rừng rậm nọ, sau khi đến đă đi sâu vào trong khu rừng rậm ấy và đă ngồi xuống ở gốc cây nọ.

 

4. Vào lúc bấy giờ, những người bạn thuộc nhóm các vương tử có số lượng ba mươi (người) cùng với những người vợ đang du ngoạn ở trong khu rừng rậm ấy. Một người không có vợ. Cô gái điếm đă được dẫn đến cho nhu cầu của vị ấy. Rồi trong khi những người ấy đang lơ đễnh du ngoạn, cô gái điếm ấy đă cầm lấy gói đồ rồi tẩu thoát.

 

5. Sau đó, những người bạn ấy trong lúc giúp đỡ bạn bè, trong lúc t́m kiếm người đàn bà ấy, trong khi lang thang ở khu rừng rậm ấy, đă nh́n thấy đức Thế Tôn đang ngồi ở gốc cây nọ, sau khi nh́n thấy đă đi đến gần đức Thế Tôn, sau khi đến đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, vậy chớ đức Thế Tôn có nh́n thấy người đàn bà không?” - “Này các vương tử, các vị có chuyện ǵ với người đàn bà?” - “Bạch ngài, ở đây chúng tôi là những người bạn thuộc nhóm các vương tử có số lượng ba mươi (người) đă cùng với những người vợ du ngoạn ở trong khu rừng rậm này. Một người không có vợ. Cô gái điếm đă được dẫn đến cho nhu cầu của vị ấy. Bạch ngài, rồi trong khi chúng tôi đang lơ đễnh du ngoạn, cô gái điếm ấy đă cầm lấy gói đồ rồi tẩu thoát. Bạch ngài, là những người bạn trong lúc giúp đỡ bạn bè, trong lúc t́m kiếm người đàn bà ấy, chúng tôi đây lang thang đi đến khu rừng rậm này.”

 

6. - “Này các vương tử, các vị nghĩ thế nào về việc các vị nên t́m kiếm người đàn bà và việc các vị nên t́m kiếm lấy chính ḿnh, đối với các vị việc nào quan trọng hơn?” - “Bạch ngài, đối với chúng tôi việc chúng tôi nên t́m kiếm lấy chính ḿnh là việc quan trọng hơn.” - “Này các vương tử, chính v́ việc ấy các vị hăy ngồi xuống, ta sẽ thuyết giảng Giáo Pháp cho các vị.” - “Bạch ngài, xin vâng.” Rồi những người bạn thuộc nhóm các vương tử ấy đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên.

 

7. Đức Thế Tôn đă thuyết Pháp theo thứ lớp đến các vị ấy. Tức là ngài đă giảng giải bài thuyết về bố thí, bài thuyết về giới cấm, bài thuyết về cơi trời, sự ô nhiễm hạ liệt tai hại của các dục, và sự lợi ích của việc xuất ly. Khi đức Thế Tôn biết được các vị ấy có tâm đă sẵn sàng, dễ uốn nắn, không c̣n chướng ngại, hướng thượng, tịnh tín, ngài đă phô bày Pháp thuyết giảng đă được chư Phật khai mở là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng giống như tấm vải sạch chưa bị vết nhơ có thể nhuộm màu một cách toàn vẹn; tương tự như thế, ngay tại chỗ ngồi ấy Pháp nhăn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đă sanh khởi đến các vị ấy: “Điều ǵ có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.” Sau đó, khi đă thấy được Pháp, đă thành tựu được Pháp, đă hiểu được Pháp, đă thấm nhuần Pháp, hoài nghi đă không c̣n, sự lưỡng lự đă dứt hẳn, đă thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc Đạo Sư, không c̣n cần sự trợ duyên của người khác, các vị ấy đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, chúng con có thể xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn không? Chúng con có thể tu lên bậc trên không?” Đức Thế Tôn đă nói rằng: - “Này các tỳ khưu, hăy đến. Pháp đă khéo được thuyết giảng, hăy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.” Chính lời nói ấy đă là sự tu lên bậc trên của đại đức ấy.

 

Dứt câu chuyện về những người bạn thuộc nhóm các vương tử.

 

Tụng phẩm thứ nh́.

 

--ooOoo--

 

 TỤNG PHẨM THỨ BA

 

1. Sau đó, trong khi tuần tự du hành đức Thế Tôn đă ngự đến Uruvelā. Vào lúc bấy giờ, có ba vị đạo sĩ bện tóc đang cư trú ở Uruvelā là Uruvela-kassapa, Nadīkassapa, và Gayākassapa. Trong số các vị ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa là vị lănh đạo, vị hướng dẫn, vị quan trọng nhất, vị đứng đầu, vị thủ lĩnh của năm trăm đạo sĩ bện tóc. Đạo sĩ bện tóc Nadīkassapa là vị lănh đạo, vị hướng dẫn, vị quan trọng nhất, vị đứng đầu, vị thủ lĩnh của ba trăm đạo sĩ bện tóc. Đạo sĩ bện tóc Gayākassapa là vị lănh đạo, vị hướng dẫn, vị quan trọng nhất, vị đứng đầu, vị thủ lĩnh của hai trăm đạo sĩ bện tóc.

 

2. Khi ấy, đức Thế Tôn đă đi đến khu ẩn cư của đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa, sau khi đến đă nói với đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa điều này: - “Này Kassapa, nếu không trở ngại cho ngươi th́ chúng ta có thể ngụ một đêm trong nhà thờ lửa.” - “Này vị đại Sa-môn, quả là không trở ngại cho tôi. (Tuy nhiên) ở đây có con rồng chúa dữ tợn, có pháp thuật, là con rắn có nọc độc khủng khiếp, không thể để cho nó hại ngài được.” Đến lần thứ nh́, đức Thế Tôn đă nói với đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa điều này: - “Này Kassapa, nếu không trở ngại cho ngươi th́ chúng ta có thể ngụ một đêm trong nhà thờ lửa.” - “Này vị đại Sa-môn, quả là không trở ngại cho tôi. (Tuy nhiên) ở đây có con rồng chúa dữ tợn, có pháp thuật, là con rắn có nọc độc khủng khiếp, không thể để cho nó hại ngài được.” Đến lần thứ ba, đức Thế Tôn đă nói với đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa điều này: - “Này Kassapa, nếu không trở ngại cho ngươi th́ chúng ta có thể ngụ một đêm trong nhà thờ lửa.” - “Này vị đại Sa-môn, quả là không trở ngại cho tôi. (Tuy nhiên) ở đây có con rồng chúa dữ tợn, có pháp thuật, là con rắn có nọc độc khủng khiếp, không thể để cho nó hại ngài được.” - “Biết đâu nó có thể không hại ta. Này Kassapa, ngươi hăy cho phép (ta cư ngụ) nhà thờ lửa đi.” - “Này vị đại Sa-môn, ngài hăy cư ngụ một cách thoải mái.” Sau đó, đức Thế Tôn đă đi vào nhà thờ lửa, sắp đặt tấm thảm trải bằng cỏ, rồi ngồi xuống, xếp (chân) thế kiết già, giữ thân thẳng, tập trung niệm ở phía trước.

 

3. Khi ấy, con rồng ấy đă nh́n thấy đức Thế Tôn đi vào, sau khi nh́n thấy trở nên bực bội nên đă phun khói. Khi ấy, đức Thế Tôn đă khởi ư điều này: “Có lẽ ta không nên làm thương tổn đến lớp vỏ, làn da, thịt, gân, xương, tủy của con rồng này mà chỉ nên dùng lửa (của ta) làm cho lửa (của nó) bị kiệt quệ thôi.” Sau đó, đức Thế Tôn đă thi triển phép thần thông có h́nh thức như thế và đă phun khói. Khi ấy, con rồng không chịu nổi sự khổ sở nên đă phun ra lửa. Đức Thế Tôn cũng đă nhập thiền đề mục lửa và đă phun ra lửa. Trong khi cả hai đều có trạng thái rực sáng, ngôi nhà thờ lửa như là bị đốt cháy, bị phát cháy, có trạng thái rực sáng. Khi ấy, những đạo sĩ bện tóc ấy đă vây xung quanh nhà thờ lửa và nói như vầy: - “Quả thật vị đại Sa-môn có vóc dáng xinh đẹp đă bị con rồng hăm hại!” Sau đó, khi trải qua đêm ấy đức Thế Tôn đă không làm thương tổn đến lớp vỏ, làn da, thịt, gân, xương, tủy của con rồng này mà đă dùng lửa (của Ngài) làm cho lửa (của nó) bị kiệt quệ, rồi bỏ vào trong b́nh bát, và đưa cho đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa xem (nói rằng): - “Này Kassapa, đây là con rồng của ngươi. Lửa của nó đă bị lửa (của ta) làm cho kiệt quệ.” Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đă khởi ư điều này: “Vị đại Sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực bởi v́ vị ấy đă dùng lửa (của vị ấy) làm cho lửa của con rồng chúa dữ tợn, có pháp thuật, là con rắn có nọc độc khủng khiếp bị kiệt quệ, nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống như ta đây.”

 

4. Ở Nerañjarā, đức Thế Tôn đă nói với đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa rằng: - ‘Này Kassapa, nếu không trở ngại cho ngươi th́ đêm nay hăy để ta ngụ ở nơi thờ phụng lửa.’

 

- ‘Này vị đại Sa-môn, quả chằng có trở ngại cho tôi. Chỉ v́ muốn được yên tâm mà tôi ngăn cản ngài. Nơi đây có con rồng chúa dữ tợn, có pháp thuật, là con rắn có nọc độc khủng khiếp, không thể để cho nó hại ngài được.’

 

- ‘Biết đâu nó có thể không hại ta. Này Kassapa, ngươi hăy cho phép (ta cư ngụ) nhà thờ lửa đi.’ Sau khi biết được điều ấy là: ‘Đă được cho phép,’ Ngài đă đi vào, không khiếp đảm, đă ĺa nỗi sợ hăi.

 

Thấy vị ẩn sĩ đă đi vào, con rồng chúa có ư bực bội đă phun khói. Vị chúa của loài người, với tâm ḥa dịu, với ư cao cả, tại nơi đó cũng đă phun khói.

 

Và không nén được nỗi bực tức, con rồng chúa đă phun lửa như là cơn hỏa hoạn. Vị chúa của loài người, thiện xảo về các đề mục lửa, tại nơi đó cũng đă phun lửa.

 

Trong khi cả hai đều có trạng thái rực sáng, các đạo sĩ bện tóc đă vây xung quanh nhà thờ lửa và nói rằng: - ‘Đương nhiên là vị đại Sa-môn có vóc dáng xinh đẹp bị con rồng hăm hại!’

 

Rồi đêm đă qua đi, các ngọn lửa lửa của rồng chúa chẳng c̣n, c̣n các ngọn lửa của vị có thần lực vẫn tồn tại và có nhiều màu sắc.

 

Các ngọn lửa nhiều màu sắc từ cơ thể của vị Aṅgīrasa có các màu sắc trong suốt, xanh, đỏ, tím, vàng.

 

Sau khi đặt con rồng vào b́nh bát, Ngài đă đưa ra cho vị Bà-la-môn xem: - ‘Này Bà-la-môn, đây là con rồng của ngươi. Lửa của nó đă bị kiệt quệ v́ ngọn lửa (của ta).’”[13]

 

5. Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa vô cùng hoan hỷ với sự kỳ diệu của thần thông này của đức Thế Tôn nên đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Này vị đại Sa-môn, hăy cư ngụ ngay tại đây, tôi có thức ăn trường kỳ cho ngài.

 

Điều kỳ diệu thứ nhất.

 

--ooOoo--

 

 

6. Sau đó, đức Thế Tôn đă cư ngụ trong khu rừng rậm nọ không xa khu ẩn cư của đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa. Khi ấy vào lúc đêm khuya, bốn vị Đại Thiên Vương có hào quang rực rỡ đă làm chói sáng toàn bộ khu rừng rậm, rồi đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở bốn phương giống như là những khối lửa khổng lồ.

 

Sau đó, khi trải qua đêm ấy đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Này vị đại Sa-môn, đă đến giờ, thức ăn đă chuẩn bị xong. Này vị đại Sa-môn, trong lúc đêm khuya những ai có hào quang rực rỡ đă làm chói sáng toàn bộ khu rừng rậm, rồi đă đi đến gặp ngài, sau khi đến đă đảnh lễ ngài rồi đứng ở bốn phương giống như là những khối lửa khổng lồ vậy?” - “Này Kassapa, các vị ấy là bốn vị Đại Thiên Vương đă đi đến gặp ta để nghe Pháp.” Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đă khởi ư điều này: “Vị đại Sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực bởi v́ ngay cả bốn vị Đại Thiên Vương c̣n đi đến gặp để nghe Pháp, nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống như ta đây.” Sau đó, đức Thế Tôn đă thọ thực bữa ăn của vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa rồi đă cư ngụ ở ngay trong khu rừng rậm ấy.

 

Điều kỳ diệu thứ nh́.

 

--ooOoo--

 

 

7. Sau đó, trong lúc đêm khuya vị chúa của chư Thiên Sakka có hào quang rực rỡ đă làm chói sáng toàn bộ khu rừng rậm, rồi đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên giống như là khối lửa khổng lồ c̣n rực rỡ hơn và thù thắng hơn những hào quang đầy màu sắc trước đây nữa.

 

Sau đó, khi trải qua đêm ấy đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Này vị đại Sa-môn, đă đến giờ, thức ăn đă chuẩn bị xong. Này vị đại Sa-môn, trong lúc đêm khuya người nào có hào quang rực rỡ đă làm chói sáng toàn bộ khu rừng rậm, rồi đă đi đến gặp ngài, sau khi đến đă đảnh lễ ngài rồi đứng ở một bên giống như là khối lửa khổng lồ c̣n rực rỡ hơn và thù thắng hơn những hào quang đầy màu sắc trước đây nữa vậy?”

 

- “Này Kassapa, vị ấy là chúa của chư Thiên Sakka đă đi đến gặp ta để nghe Pháp.” Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đă khởi ư điều này: “Vị đại Sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực bởi v́ ngay cả chúa của chư Thiên Sakka c̣n đi đến gặp để nghe Pháp, nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống như ta đây.” Sau đó, đức Thế Tôn đă thọ thực bữa ăn của vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa rồi đă cư ngụ ở ngay trong khu rừng rậm ấy.

 

Điều kỳ diệu thứ ba.

 

--ooOoo--

 

 

8. Sau đó, trong lúc đêm khuya vị Phạm Thiên Sahampati có hào quang rực rỡ đă làm chói sáng toàn bộ khu rừng rậm, rồi đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên giống như là khối lửa khổng lồ c̣n rực rỡ hơn và thù thắng hơn những hào quang đầy màu sắc trước đây nữa.

 

9. Sau đó, khi trải qua đêm ấy đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Này vị đại Sa-môn, đă đến giờ, thức ăn đă chuẩn bị xong. Này vị đại Sa-môn, trong lúc đêm khuya người nào có hào quang rực rỡ đă làm chói sáng toàn bộ khu rừng rậm, rồi đă đi đến gặp ngài, sau khi đến đă đảnh lễ ngài rồi đứng ở một bên giống như là khối lửa khổng lồ c̣n rực rỡ hơn và thù thắng hơn những hào quang đầy màu sắc trước đây nữa vậy?”

 

- “Này Kassapa, vị ấy là Phạm Thiên Sahampati đă đi đến gặp ta để nghe Pháp.” Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đă khởi ư điều này: “Vị đại Sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực bởi v́ vị Phạm Thiên Sahampati c̣n đi đến gặp để nghe Pháp, nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống như ta đây.” Sau đó, đức Thế Tôn đă thọ thực bữa ăn của vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa rồi đă cư ngụ ở ngay trong khu rừng rậm ấy.

 

Điều kỳ diệu thứ tư.

 

--ooOoo--

 

 

10. Vào lúc bấy giờ, buổi đại lễ cúng tế của đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đă đến. Toàn bộ dân chúng ở Aṅga và Magadha đem lại nhiều thức ăn loại cứng loại mềm với ư định tham dự. Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đă khởi ư điều này: “Giờ đây buổi đại lễ cúng tế của ta đă đến, toàn bộ dân chúng ở Aṅga và Magadha sẽ đem lại nhiều thức ăn loại cứng loại mềm và tham dự. Nếu vị đại Sa-môn thực hiện sự kỳ diệu của thần thông trước đám đông th́ lợi lộc và tôn kính sẽ tăng trưởng cho vị đại Sa-môn, c̣n lợi lộc và tôn kính của ta sẽ bị giảm đi; vậy th́ vị đại Sa-môn không thể đi đến vào ngày mai.”

 

11. Khi ấy, đức Thế Tôn dùng tâm biết được ư nghĩ suy tầm của đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa nên đă đi đến xứ Kuru ở phương Bắc, từ nơi ấy đă đem lại đồ ăn khất thực và đă thọ thực ở hồ Anotatta, rồi đă nghỉ trưa ở ngay tại nơi ấy.

 

12. Sau đó, khi trải qua đêm ấy đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Này vị đại Sa-môn, đă đến giờ, thức ăn đă chuẩn bị xong. Này vị đại Sa-môn, việc ǵ khiến ngài đă không đi đến ngày hôm qua? Tuy nhiên, chúng tôi cũng có nhớ đến ngài rằng: ‘Việc ǵ khiến vị đại Sa-môn không đi đến?’ Phần chia về thức ăn loại cứng và loại mềm đă được để dành cho ngài.”

 

13. - “Này Kassapa, thế không phải ngươi đă khởi ư điều này: ‘Giờ đây buổi đại lễ cúng tế của ta đă đến, toàn bộ dân chúng ở Aṅga và Magadha sẽ đem lại nhiều thức ăn loại cứng loại mềm và tham dự. Nếu vị đại Sa-môn thực hiện sự kỳ diệu của thần thông trước đám đông th́ lợi lộc và tôn kính sẽ tăng trưởng cho vị đại Sa-môn, c̣n lợi lộc và tôn kính của ta sẽ bị giảm đi; vậy th́ vị đại Sa-môn không thể đi đến vào ngày mai.’

 

14. Này Kassapa, ta đây dùng tâm biết được ư nghĩ suy tầm của ngươi nên đă đi đến xứ Kuru ở phương Bắc, từ nơi ấy đă đem lại đồ ăn khất thực và đă thọ thực ở hồ Anotatta, rồi đă nghỉ trưa ở ngay tại nơi ấy.”

 

15. Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đă khởi ư điều này: “Vị đại Sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực bởi v́ vị ấy c̣n biết được tâm bằng tâm, nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống như ta đây.” Sau đó, đức Thế Tôn đă thọ thực bữa ăn của vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa rồi đă cư ngụ ở ngay trong khu rừng rậm ấy.

 

Điều kỳ diệu thứ năm.

 

--ooOoo--

 

 

1. Vào lúc bấy giờ, có vải paṃsukūla[14] đă phát sanh đến đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn đă khởi ư điều này: “Vậy ta có thể giặt vải paṃsukūla ở đâu?” Khi ấy, vị chúa của chư Thiên Sakka dùng tâm biết được ư nghĩ suy tầm của đức Thế Tôn nên đă dùng tay đào thành cái hồ nước rồi nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hăy giặt vải paṃsukūla ở đây.” Sau đó, đức Thế Tôn đă khởi ư điều này: “Vậy ta có thể nhồi vải paṃsukūla ở nơi vật ǵ?” Khi ấy, vị chúa của chư Thiên Sakka dùng tâm biết được ư nghĩ suy tầm của đức Thế Tôn nên đă mang lại tảng đá lớn rồi nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hăy nhồi vải paṃsukūla ở đây.” Sau đó, đức Thế Tôn đă khởi ư điều này: “Vậy ta có thể nắm vào vật ǵ và bước lên?” Khi ấy, vị Thiên thần ngụ ở cây Kakudha dùng tâm biết được ư nghĩ suy tầm của đức Thế Tôn nên đă uốn cong cành cây xuống (nói rằng): - “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hăy nắm vào đây và bước lên.” Sau đó, đức Thế Tôn đă khởi ư điều này: “Vậy ta có thể phơi khô vải paṃsukūla ở nơi vật ǵ?” Khi ấy, vị chúa của chư Thiên Sakka dùng tâm biết được ư nghĩ suy tầm của đức Thế Tôn nên đă mang lại tảng đá lớn rồi nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hăy phơi khô vải paṃsukūla ở đây.”

 

2. Sau đó, khi trải qua đêm ấy đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Này vị đại Sa-môn, đă đến giờ, thức ăn đă chuẩn bị xong. Này vị đại Sa-môn, có phải trước kia cái hồ nước này không có ở đây, giờ cái hồ nước này đây lại có ở đây? Trước kia ḥn đá này không được đem lại, do ai mà ḥn đá này đă được đem lại? Trước kia cành của cây Kakudha này không bị uốn cong xuống, giờ cành cây này đây đă bị uốn cong xuống?”

 

3. - “Này Kassapa, trường hợp này là có vải paṃsukūla đă phát sanh đến ta. Ta đây đă khởi ư điều này: “Vậy ta có thể giặt vải paṃsukūla ở đâu?” Khi ấy, vị chúa của chư Thiên Sakka dùng tâm biết được ư nghĩ suy tầm của ta nên đă dùng tay đào thành cái hồ nước rồi nói với ta điều này: “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hăy giặt vải paṃsukūla ở đây.” Cái hồ này đây đă được đào bằng bàn tay bởi hạng không phải là người. Này Kassapa, ta đây đă khởi ư điều này: “Vậy ta có thể nhồi vải paṃsukūla ở nơi vật ǵ?” Khi ấy, vị chúa của chư Thiên Sakka dùng tâm biết được ư nghĩ suy tầm của ta nên đă mang lại tảng đá lớn: “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hăy nhồi vải paṃsukūla ở đây.” Ḥn đá này đây đă được đem lại bởi hạng không phải là người. Này Kassapa, ta đây đă khởi ư điều này: “Vậy ta có thể nắm vào vật ǵ và bước lên?” Khi ấy, vị Thiên thần ngụ ở cây Kakudha dùng tâm biết được ư nghĩ suy tầm của ta nên đă uốn cong cành cây xuống: “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hăy nắm vào đây và bước lên.” Cây Kakudha này đây là vật để tay nắm vào. Này Kassapa, ta đây đă khởi ư điều này: “Vậy ta có thể phơi khô vải paṃsukūla ở nơi vật ǵ?” Khi ấy, vị chúa của chư Thiên Sakka dùng tâm biết được ư nghĩ suy tầm của ta nên đă mang lại tảng đá lớn: “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hăy phơi khô vải paṃsukūla ở đây.” Ḥn đá này đây đă được đem lại bởi hạng không phải là người. Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đă khởi ư điều này: “Vị đại Sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực bởi v́ vị chúa của chư Thiên Sakka c̣n phải phục vụ, nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống như ta đây.” Sau đó, đức Thế Tôn đă thọ thực bữa ăn của vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa rồi đă cư ngụ ở ngay trong khu rừng rậm ấy.

 

4. Sau đó, khi trải qua đêm ấy đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Này vị đại Sa-môn, đă đến giờ, thức ăn đă chuẩn bị xong.” - “Này Kassapa, ngươi hăy đi rồi ta đến.” Sau khi bảo vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đi, Ngài đă hái trái cây từ cây Jambu,[15] do cây Jambu mà Jambudīpa[16] được biết tiếng, rồi đă đi đến trước và ngồi ở nhà thờ lửa. Vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đă nh́n thấy đức Thế Tôn ngồi trong nhà thờ lửa, sau khi nh́n thấy đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Này vị đại Sa-môn, ngài đă đi đến bằng con đường nào? Tôi đă ra đi trước ngài, vậy mà ngài đây đă đi đến trước và ngồi ở nhà thờ lửa.” - “Này Kassapa, trong trường hợp này, sau khi bảo ngươi đi, ta đă hái trái cây từ cây Jambu, do cây Jambu mà Jambudīpa được biết tiếng, rồi đă đi đến trước và ngồi ở nhà thờ lửa. Này Kassapa, trái cây Jambu này đạt được màu sắc, đạt được hương thơm, đạt được mùi vị, nếu ngươi thích th́ hăy ăn đi.” - “Này vị đại Sa-môn, thôi đi. Chính ngài đă mang nó lại th́ chính ngài hăy ăn nó.” Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đă khởi ư điều này: “Vị đại Sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực bởi v́ sau khi bảo ta đi trước, vị ấy đă hái trái cây từ cây Jambu, do cây Jambu mà Jambudīpa được biết tiếng, rồi đi đến trước và ngồi ở nhà thờ lửa, nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống như ta đây.” Sau đó, đức Thế Tôn đă thọ thực bữa ăn của vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa rồi đă cư ngụ ở ngay trong khu rừng rậm ấy.

 

5. Sau đó, khi trải qua đêm ấy đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Này vị đại Sa-môn, đă đến giờ, thức ăn đă chuẩn bị xong.” - “Này Kassapa, ngươi hăy đi rồi ta đến.” Sau khi bảo vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đi, ngài đă hái trái xoài không xa cây Jambu, do cây Jambu mà Jambudīpa được biết tiếng, ―(như trên)― trái Āmalakī không xa cây Jambu, ―(như trên)― trái Harītakī không xa cây Jambu, ―(như trên)― đă đi đến cơi trời Đạo Lợi hái bông hoa của cây san hô, rồi đă đi đến trước và ngồi ở nhà thờ lửa. Vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đă nh́n thấy đức Thế Tôn ngồi trong nhà thờ lửa, sau khi nh́n thấy đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Này vị đại Sa-môn, ngài đă đi đến bằng con đường nào? Tôi đă ra đi trước ngài vậy mà ngài đă đi đến trước và ngồi ở nhà thờ lửa.” - “Này Kassapa, trong trường hợp này, sau khi bảo ngươi đi, ta đă đi đến cơi trời Đạo Lợi hái bông hoa của cây san hô, rồi đă đi đến trước và ngồi ở nhà thờ lửa. Này Kassapa, bông hoa của cây san hô này đạt được màu sắc, đạt được hương thơm.” Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đă khởi ư điều này: “Vị đại Sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực bởi v́ sau khi bảo ta đi trước, vị ấy đă đi đến cơi trời Đạo Lợi hái bông hoa của cây san hô, rồi đă đi đến trước và ngồi ở nhà thờ lửa, nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống như ta đây.”

 

6. Vào lúc bấy giờ, các vị đạo sĩ bện tóc ấy, có ước muốn thờ phụng lửa, không thể chẻ nhỏ các thanh củi được. Khi ấy, các vị đạo sĩ bện tóc ấy đă khởi ư điều này: “Chắc chắn là do năng lực thần thông của vị đại Sa-môn nên chúng ta không thể nào chẻ nhỏ các thanh củi được!” Khi ấy, đức Thế Tôn đă nói với vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa điều này: - “Này Kassapa, hăy khiến các thanh củi được chẻ nhỏ.” - “Này vị đại Sa-môn, hăy khiến chúng được chẻ nhỏ.” Ngay lập tức, năm trăm thanh củi đă được chẻ nhỏ. Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đă khởi ư điều này: “Vị đại Sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực bởi v́ ngay cả các thanh củi cũng không chẻ nhỏ được, nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống như ta đây.”

 

7. Vào lúc bấy giờ, các vị đạo sĩ bện tóc ấy, có ước muốn thờ phụng lửa, không thể đốt lên ngọn lửa được. Khi ấy, các vị đạo sĩ bện tóc ấy đă khởi ư điều này: “Chắc chắn là do năng lực thần thông của vị đại Sa-môn nên chúng ta không thể nào đốt lên ngọn lửa được!” Khi ấy, đức Thế Tôn đă nói với vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa điều này: - “Này Kassapa, hăy khiến các ngọn lửa được đốt lên.” - “Này vị đại Sa-môn, hăy khiến chúng được đốt lên.” Ngay lập tức, năm trăm ngọn lửa đă được đốt lên. Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đă khởi ư điều này: “Vị đại Sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực bởi v́ ngay cả các ngọn lửa cũng không đốt lên được, nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống như ta đây.”

 

8. Vào lúc bấy giờ, các vị đạo sĩ bện tóc ấy sau khi thờ phụng lửa không thể dập tắt ngọn lửa được. Khi ấy, các vị đạo sĩ bện tóc ấy đă khởi ư điều này: “Chắc chắn là do năng lực thần thông của vị đại Sa-môn nên chúng ta không thể nào dập tắt các ngọn lửa được!” Khi ấy, đức Thế Tôn đă nói với vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa điều này: - “Này Kassapa, hăy khiến các ngọn lửa được dập tắt.” - “Này vị đại Sa-môn, hăy khiến chúng được dập tắt.” Ngay lập tức, năm trăm ngọn lửa đă được dập tắt. Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvela-kassapa đă khởi ư điều này: “Vị đại Sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực bởi v́ ngay cả các ngọn lửa cũng không dập tắt được, nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống như ta đây.”

 

9. Vào lúc bấy giờ, trong khoảng thời gian tám đêm của mùa đông lạnh lẽo, vào lúc tuyết rơi các vị đạo sĩ bện tóc ấy hụp xuống và trồi lên trong gịng sông Nerañjarā, rồi lại thực hiện những hành động trồi lên hụp xuống. Khi ấy, đức Thế Tôn đă làm hiện ra các chảo lửa có số lượng năm trăm cái ở chỗ các vị đạo sĩ bện tóc ấy đă lội lên và sưởi ấm. Khi ấy, các vị đạo sĩ bện tóc ấy đă khởi ư điều này: “Chắc chắn là do năng lực thần thông của vị đại Sa-môn cho nên các chảo lửa này đă được hiện ra.” Khi ấy, vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đă khởi ư điều này: “Vị đại Sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực bởi v́ vị ấy c̣n làm hiện ra các chảo lửa nhiều đến mức này, nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống như ta đây.”

 

10. Vào lúc bấy giờ, có đám mây đen lớn sái mùa đă đổ mưa tạo thành trận lũ lụt lớn. Trong khu vực nào đức Thế Tôn cư ngụ th́ nước không tràn đến khu vực ấy. Khi ấy, đức Thế Tôn đă khởi ư điều này: “Hay là ta nên đẩy nước ra xung quanh rồi đi kinh hành ở khoảng giữa trên mặt đất được phủ đầy bụi?” Sau đó, đức Thế Tôn đă đẩy nước ra xung quanh rồi đi kinh hành ở khoảng giữa trên mặt đất được phủ đầy bụi. Khi ấy, vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa (nghĩ rằng): “Chỉ mong sao vị đại Sa-môn không bị nước cuốn trôi đi!” rồi đă cùng nhiều vị đạo sĩ bện tóc đi thuyền đến khu vực đức Thế Tôn cư ngụ. Vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đă nh́n thấy đức Thế Tôn đang đi kinh hành ở khoảng giữa trên mặt đất được phủ đầy bụi sau khi đă đẩy nước ra xung quanh, sau khi nh́n thấy đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Này vị đại Sa-môn, ngài có đây không?” - “Này Kassapa, có ta đây.” Đức Thế Tôn đă bay lên không trung và đứng ở tại chiếc thuyền. Khi ấy, vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đă khởi ư điều này: “Vị đại Sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực bởi v́ ngay cả nước (lũ) cũng không làm ǵ được, nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống như ta đây.”

 

11. Khi ấy, đức Thế Tôn đă khởi ư điều này: “Đă lâu nay, kẻ rồ dại này chỉ khởi ư rằng: ‘Vị đại Sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực, nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống như ta đây.’ Hay là ta nên làm cho vị đạo sĩ bện tóc này phải nao núng? ” Sau đó, đức Thế Tôn đă nói với vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa điều này: - “Này Kassapa, ngươi chẳng phải là A-la-hán và cũng chẳng đạt được con đường đưa đến quả vị A-la-hán. Thậm chí ngươi cũng không có đường lối thực hành để ngươi có thể trở thành A-la-hán hoặc đạt được con đường đưa đến quả vị A-la-hán.”

 

12. Khi ấy, vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đă quỳ xuống đê đầu ở hai bàn chân của đức Thế Tôn và đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, con có thể xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn không? Con có thể tu lên bậc trên không?” - “Này Kassapa, ngươi là vị lănh đạo, vị hướng dẫn, vị quan trọng nhất, vị đứng đầu, vị thủ lĩnh của năm trăm đạo sĩ bện tóc. Ngươi hăy thông báo đến các vị ấy. Các vị ấy sẽ làm theo cách các vị ấy suy tính. các vị suy tính như thế nào th́ các vị sẽ làm như thế ấy.”

 

13. Sau đó, vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đă đi đến gặp các đạo sĩ bện tóc ấy, sau khi đến đă nói với các đạo sĩ bện tóc ấy điều này: - “Này các ông, ta muốn thực hành Phạm hạnh theo vị đại Sa-môn. Các ông suy tính như thế nào th́ các ông hăy làm như thế ấy.” - “Ngài ơi, chúng tôi có niềm tin với vị đại Sa-môn đă lâu nay. Nếu ngài thực hành Phạm hạnh theo vị đại Sa-môn, hết thảy tất cả chúng tôi sẽ thực hành Phạm hạnh theo vị đại Sa-môn.”

 

14. Sau đó, các vị đạo sĩ bện tóc ấy đă quăng trôi theo ḍng nước các chùm tóc, các bện tóc, các đồ đạc, các dụng cụ thờ lửa rồi đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă quỳ xuống đê đầu ở hai bàn chân của đức Thế Tôn và đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, chúng con có thể xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn không? Chúng con có thể tu lên bậc trên không?” Đức Thế Tôn đă nói rằng: - “Này các tỳ khưu, hăy đến. Pháp đă khéo được thuyết giảng, hăy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.” Chính lời nói ấy đă là sự tu lên bậc trên của đại đức ấy.

 

15. Đạo sĩ bện tóc Nadīkassapa đă nh́n thấy các chùm tóc, các bện tóc, các đồ đạc, các dụng cụ thờ lửa ở ḍng nước đang trôi chảy, sau khi nh́n thấy, đă khởi ư điều này: “Chớ có việc ǵ nguy hiểm xảy ra cho anh trai của ta!” rồi đă phái các đạo sĩ bện tóc (nói rằng): “Các vị hăy đi và t́m hiểu xem các anh trai của ta (thế nào)!” C̣n bản thân cùng với ba trăm đạo sĩ bện tóc đă đi đến gặp đại đức Uruvelakassapa, sau khi đến đă nói với đại đức Uruvelakassapa điều này: - “Này Kassapa, điều này là tốt hơn hay sao?” - “Này đệ, đúng vậy. Điều này là tốt hơn.” Sau đó, các đạo sĩ bện tóc ấy đă quăng trôi theo ḍng nước các chùm tóc, các bện tóc, các đồ đạc, các dụng cụ thờ lửa rồi đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă quỳ xuống đê đầu ở hai bàn chân của đức Thế Tôn và đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, chúng con có thể xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn không? Chúng con có thể tu lên bậc trên không?” Đức Thế Tôn đă nói rằng: - “Này các tỳ khưu, hăy đến. Pháp đă khéo được thuyết giảng, hăy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.” Chính lời nói ấy đă là sự tu lên bậc trên của đại đức ấy.

 

16. Đạo sĩ bện tóc Gayākassapa đă nh́n thấy các chùm tóc, các bện tóc, các đồ đạc, các dụng cụ thờ lửa ở ḍng nước đang trôi chảy, sau khi nh́n thấy, đă khởi ư điều này: “Chớ có việc ǵ nguy hiểm xảy ra cho các anh trai của ta!” rồi đă phái các đạo sĩ bện tóc (nói rằng): “Các vị hăy đi và t́m hiểu xem các anh trai của ta (thế nào)!” C̣n bản thân cùng với hai trăm đạo sĩ bện tóc đă đi đến gặp đại đức Uruvelakassapa, sau khi đến đă nói với đại đức Uruvelakassapa điều này: - “Này Kassapa, điều này là tốt hơn hay sao?” - “Này đệ, đúng vậy. Điều này là tốt hơn.”

 

17. Sau đó, các đạo sĩ bện tóc ấy đă quăng trôi theo ḍng nước các chùm tóc, các bện tóc, các đồ đạc, các dụng cụ thờ lửa rồi đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă quỳ xuống đê đầu ở hai bàn chân của đức Thế Tôn và đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, chúng con có thể xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn không? Chúng con có thể tu lên bậc trên không?” Đức Thế Tôn đă nói rằng: - “Này các tỳ khưu, hăy đến. Pháp đă khéo được thuyết giảng, hăy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.” Chính lời nói ấy đă là sự tu lên bậc trên của đại đức ấy.

 

Do nguyện lực của đức Thế Tôn, năm trăm thanh củi đă không chẻ ra được, rồi đă được chẻ ra, các ngọn lửa đă không đốt lên được, rồi đă được đốt lên, đă không dập tắt được, rồi đă được dập tắt, năm trăm chảo lửa đă được làm hiện ra. Theo cách thức ấy, có ba ngàn năm trăm điều kỳ diệu.

 

18. Sau đó, khi đă ngự tại Uruvelā theo như ư thích, đức Thế Tôn đă ra đi du hành về phía đỉnh Gayā cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn vị tỳ khưu, hết thảy tất cả đều là các đạo sĩ bện tóc trước đây. Tại nơi đó ở Gayā, đức Thế Tôn ngự tại đỉnh Gayā cùng với một ngàn vị tỳ khưu. Tại nơi đó, đức Thế Tôn đă bảo các vị tỳ khưu rằng:

 

- “Này các tỳ khưu, tất cả đều bị cháy rực. Và này các tỳ khưu, cái ǵ là tất cả đều bị cháy rực? Này các tỳ khưu, mắt bị cháy rực, các sắc bị cháy rực, sự nhận thức của mắt bị cháy rực, sự tiếp xúc của mắt bị cháy rực, tức là sự cảm thọ được sanh lên do duyên tiếp xúc của mắt là lạc, hay là khổ, hoặc không khổ không lạc cũng đều bị cháy rực. Bị cháy rực bởi điều ǵ? Ta nói rằng: ‘Bị cháy rực bởi lửa tham, bởi lửa sân, bởi lửa si. Bị cháy rực bởi sanh, bởi già, bởi chết, bởi những nỗi buồn rầu, bởi những điều ta thán, bởi những nỗi khổ đau, bởi những sự bất măn, bởi những điều thất vọng.’

 

Tai bị cháy rực, các âm thanh bị cháy rực, ―(như trên)― Mũi bị cháy rực, các mùi bị cháy rực, ―(như trên)― Lưỡi bị cháy rực, các vị nếm bị cháy rực, ―(như trên)― Thân bị cháy rực, các sự xúc chạm bị cháy rực, ―(như trên)― Ư bị cháy rực, các pháp bị cháy rực, sự nhận thức của ư bị cháy rực, sự tiếp xúc của ư bị cháy rực, tức là sự cảm thọ được sanh lên do duyên tiếp xúc của ư là lạc, hay là khổ, hoặc không khổ không lạc cũng đều bị cháy rực. Bị cháy rực bởi điều ǵ? Ta nói rằng: ‘Bị cháy rực bởi lửa tham, bởi lửa sân, bởi lửa si. Bị cháy rực bởi sanh, bởi già, bởi chết, bởi những nỗi buồn rầu, bởi những điều ta thán, bởi những nỗi khổ đau, bởi những sự bất măn, bởi những điều thất vọng.’ Này các tỳ khưu, trong khi thấy như thế vị Thánh đệ tử có sự học hỏi không c̣n hứng thú đến mắt, không c̣n hứng thú đến các sắc, không c̣n hứng thú đến sự nhận thức của mắt, không c̣n hứng thú đến sự tiếp xúc của mắt, tức là không c̣n hứng thú đến sự cảm thọ được sanh lên do duyên tiếp xúc của mắt là lạc, hay là khổ, hoặc không khổ không lạc.

 

(Vị ấy) không c̣n hứng thú đến tai, không c̣n hứng thú đến các âm thanh, ―(như trên)― không c̣n hứng thú đến mũi, không c̣n hứng thú đến các mùi, ―(như trên)― không c̣n hứng thú đến lưỡi, không c̣n hứng thú đến các vị nếm, ―(như trên)― không c̣n hứng thú đến thân, không c̣n hứng thú đến các sự xúc chạm, ―(như trên)― không c̣n hứng thú đến ư, không c̣n hứng thú đến các pháp, không c̣n hứng thú đến sự nhận thức của ư, không c̣n hứng thú đến sự tiếp xúc của ư, tức là không c̣n hứng thú đến sự cảm thọ được sanh lên do duyên tiếp xúc của ư là lạc, hay là khổ, hoặc không khổ không lạc; trong khi không c̣n hứng thú, vị ấy không c̣n tham ái; do không c̣n tham ái vị ấy được giải thoát; trong khi được giải thoát, trí khởi lên rằng: ‘Đă được giải thoát.’ Vị ấy biết được rằng: ‘Sự tái sanh đă cạn kiệt, Phạm hạnh đă sống, việc cần làm đă làm, không c̣n ǵ khác (phải làm) đối với bản thể (A-la-hán) này nữa.’”

 

19. Và trong khi bài kinh này được thuyết giảng, các tâm của một ngàn vị tỳ khưu ấy đă không c̣n chấp thủ và đă được giải thoát khỏi các lậu hoặc.

 

Dứt phần giảng về ‘Bị Cháy Rực.’

 

Dứt tụng phẩm ‘Sự Kỳ Diệu ở Uruvelā’ là thứ ba.

 

--ooOoo--

 

 TỤNG PHẨM THỨ TƯ

 

1. Sau đó, khi đă ngự tại Uruvelā theo như ư thích, đức Thế Tôn đă ra đi du hành về phía thành Rājagaha cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn vị tỳ khưu, hết thảy tất cả đều là các đạo sĩ bện tóc trước đây. Trong khi tuần tự du hành, ngài đă ngự đến thành Rājagaha. Tại nơi đó ở thành Rājagaha, đức Thế Tôn ngự tại khu rừng Laṭṭhi, nơi điện thờ Suppatiṭṭha. Đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đă nghe được rằng: “Chắc chắn là ngài Sa-môn Gotama, con trai ḍng Sakya, từ ḍng dơi Sakya đă xuất gia, đă ngự đến thành Rājagaha và trú ở thành Rājagaha, tại khu rừng Laṭṭhi, nơi điện thờ Suppatiṭṭha. Tiếng tăm tốt đẹp về ngài Gotama ấy đă được lan rộng ra như vầy: ‘Đức Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Tối Thượng Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.’ Với thắng trí của ḿnh, vị ấy chứng ngộ và công bố về thế gian này tính luôn cơi chư Thiên, cơi Ma Vương, cơi Phạm Thiên, cho đến ḍng dơi Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài người. Vị ấy thuyết giảng Giáo Pháp toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, và toàn hảo ở đoạn kết, thành tựu về ư nghĩa, thành tựu về văn tự, giảng giải về Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn và đầy đủ. Tốt thay cho việc diện kiến các vị A-la-hán như thế ấy!”

 

2. Sau đó, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha được tháp tùng bởi một trăm hai mươi ngàn[17] Bà-la-môn và gia chủ người xứ Magadha đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. C̣n một trăm hai mươi ngàn Bà-la-môn và gia chủ người xứ Magadha ấy, một số đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên, một số đă tỏ vẻ thân thiện với đức Thế Tôn, sau khi trao đổi lời xă giao thân thiện rồi ngồi xuống ở một bên, một số đă chắp tay cúi chào đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên, một số đă xưng tên họ trước đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên, một số có thái độ im lặng rồi ngồi xuống ở một bên.

 

3. Khi ấy, một trăm hai mươi ngàn Bà-la-môn và gia chủ người xứ Magadha ấy đă khởi ư điều này: “Vị đại Sa-môn thực hành Phạm hạnh theo Uruvelakassapa, hay là Uruvelakassapa thực hành Phạm hạnh theo vị đại Sa-môn?” Khi ấy, đức Thế Tôn dùng tâm biết được ư nghĩ suy tầm của một trăm hai mươi ngàn Bà-la-môn và gia chủ người xứ Magadha ấy nên đă nói với đại đức Uruvelakassapa bằng bài kệ này:

 

4. - “Kẻ trú ở Uruvelā, người giáo huấn các đạo sĩ khổ hạnh, sau khi đă thấy điều ǵ, mà đă từ bỏ ngọn lửa? Này Kassapa, ta hỏi ngươi điều này: “Tại sao việc thờ lửa của ngươi bị từ bỏ?

 

- “Việc cúng tế đề cập đến các h́nh ảnh, các âm thanh, và các mùi vị, dục lạc, và đàn bà. Sau khi nhận biết rằng ‘việc ấy là ô nhiễm’ trong các mầm mống tái sanh, v́ thế con đă không thích thú các việc hy sinh (hay) các việc cúng tế.”

 

(Đức Thế Tôn nói với Kassapa): - “Ở đây tâm của ngươi đă không thích thú đối với các h́nh ảnh, các âm thanh, và các mùi vị, như thế cái ǵ ở thế giới nhân Thiên là được tâm thích thú? Này Kassapa, hăy nói với ta về điều ấy.”

 

- “Sau khi đă nh́n thấy đạo lộ thanh tịnh, không mầm mống tái sanh, không có ǵ (về tham ái), không bị trói buộc trong dục lạc và hiện hữu, không c̣n những thứ khác (sanh, lăo, tử, v.v...), không thể đạt đến bằng đường lối nào khác, v́ thế con đă không thích thú các việc hy sinh (hay) các việc cúng tế.”

 

5. Sau đó, đại đức Uruvelakassapa đă từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y một bên vai, quỳ xuống đê đầu ở hai bàn chân của đức Thế Tôn và nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, đức Thế Tôn là bậc Đạo Sư của con, con là người đệ tử. Bạch ngài, đức Thế Tôn là bậc Đạo Sư của con, con là người đệ tử.” Khi ấy, một trăm hai mươi ngàn Bà-la-môn và gia chủ người xứ Magadha ấy đă khởi ư điều này: “Uruvelakassapa thực hành Phạm hạnh theo vị đại Sa-môn.” Sau đó, đức Thế Tôn dùng tâm biết được ư nghĩ suy tầm của một trăm hai mươi ngàn Bà-la-môn và gia chủ người xứ Magadha ấy nên đă thuyết Pháp theo thứ lớp đến những người ấy. Tức là ngài đă giảng giải bài thuyết về bố thí, bài thuyết về giới cấm, bài thuyết về cơi trời, sự ô nhiễm hạ liệt tai hại của các dục, và sự lợi ích của việc xuất ly. Khi đức Thế Tôn biết được những người ấy có tâm đă sẵn sàng, dễ uốn nắn, không c̣n chướng ngại, hướng thượng, tịnh tín, ngài đă phô bày Pháp thuyết giảng đă được chư Phật khai mở là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng giống như tấm vải sạch chưa bị vết nhơ có thể nhuộm màu một cách toàn vẹn; tương tự như thế, ngay tại chỗ ngồi ấy Pháp nhăn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đă sanh khởi đến một trăm hai mươi ngàn Bà-la-môn và gia chủ người xứ Magadha ấy có đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đứng đầu: “Điều ǵ có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.” Mười ngàn người đă tuyên bố bản thân là cư sĩ.

 

6. Sau đó, khi đă thấy được Pháp, đă thành tựu được Pháp, đă hiểu được Pháp, đă thấm nhuần Pháp, hoài nghi đă không c̣n, sự lưỡng lự đă dứt hẳn, đă thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc Đạo Sư, không c̣n cần sự trợ duyên của người khác, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, trước đây khi c̣n là hoàng tử trẫm đă có năm điều ước nguyện, giờ đây các điều ấy đă được thành tựu cho trẫm. Bạch ngài, trước đây khi c̣n là hoàng tử trẫm đă khởi ư điều này: ‘Ước ǵ họ tấn phong ta làm vua!’ Bạch ngài, đó là điều ước nguyện thứ nhất của trẫm; giờ đây điều ấy đă được thành tựu cho trẫm. ‘Ước ǵ bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đi vào vương quốc của ta đây!’ Bạch ngài, đó là điều ước nguyện thứ nh́ của trẫm; giờ đây điều ấy đă được thành tựu cho trẫm. ‘Ước ǵ ta được tỏ ḷng tôn kính đến đức Thế Tôn ấy!’ Bạch ngài, đó là điều ước nguyện thứ ba của trẫm; giờ đây điều ấy đă được thành tựu cho trẫm. ‘Ước ǵ đức Thế Tôn ấy thuyết giảng Giáo Pháp cho ta!’ Bạch ngài, đó là điều ước nguyện thứ tư của trẫm; giờ đây điều ấy đă được thành tựu cho trẫm. ‘Ước ǵ ta có thể hiểu được Giáo Pháp của đức Thế Tôn ấy!’ Bạch ngài, đó là điều ước nguyện thứ năm của trẫm; giờ đây điều ấy đă được thành tựu cho trẫm. Bạch ngài, trước đây khi c̣n là hoàng tử, trẫm đă có năm điều ước nguyện này; giờ đây các điều ấy đă được thành tựu cho trẫm.

 

7. Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, giống như người có thể lật ngửa vật đă được úp lại, mở ra vật đă bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): ‘Những người có mắt sẽ nh́n thấy được các h́nh dáng;’ tương tự như thế, Pháp đă được đức Thế Tôn chỉ rơ bằng nhiều phương tiện. Bạch ngài, trẫm đây xin đi đến nương nhờ đức Thế Tôn, Giáo Pháp, và Hội Chúng tỳ khưu. Xin đức Thế Tôn chấp nhận trẫm là nam cư sĩ đă đi đến nương nhờ kể từ hôm nay cho đến trọn đời. Bạch ngài, xin đức Thế Tôn nhận lời trẫm về bữa thọ trai vào ngày mai cùng với hội chúng tỳ khưu. Đức Thế Tôn đă nhận lời bằng thái độ im lặng.

 

8. Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn nên đă từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi. Sau đó, khi trải qua đêm ấy đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đă cho người chuẩn bị thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm rồi sai người thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn: - “Bạch ngài, đă đến giờ, thức ăn đă chuẩn bị xong.” Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đă mặc y, cầm y bát, đi vào thành Rājagaha cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn vị tỳ khưu, hết thảy tất cả đều là các đạo sĩ bện tóc trước đây. Vào lúc bấy giờ, chúa của chư Thiên Sakka đă biến thành h́nh dáng của người thanh niên đi phía trước hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu ngâm nga những lời kệ này:

 

9. Vị đă tự rèn luyện, đă hoàn toàn giải thoát, cùng những vị trước đây là các đạo sĩ bện tóc (giờ) đă được rèn luyện, đă hoàn toàn giải thoát. Với sắc màu vàng khối, đức Thế Tôn đă đi vào thành Rājagaha.

 

Vị đă được thanh tịnh, đă hoàn toàn giải thoát, cùng những vị trước đây là các đạo sĩ bện tóc (giờ) đă được thanh tịnh, đă hoàn toàn giải thoát. Với sắc màu vàng khối, đức Thế Tôn đă đi vào thành Rājagaha.

 

Vị đă được tự do, đă hoàn toàn giải thoát, cùng những vị trước đây là các đạo sĩ bện tóc (giờ) đă được tự do, đă hoàn toàn giải thoát. Với sắc màu vàng khối, đức Thế Tôn đă đi vào thành Rājagaha.

 

Vị đă tự vượt qua, đă hoàn toàn giải thoát, cùng những vị trước đây là các đạo sĩ bện tóc (giờ) đă được vượt qua, đă hoàn toàn giải thoát. Với sắc màu vàng khối, đức Thế Tôn đă đi vào thành Rājagaha.

 

Đấng Thập Trú,[18] Thập Lực, bậc thông hiểu mười pháp,[19] và đă thành đạt mười điều,[20] đức Thế Tôn ấy được tháp tùng bởi một ngàn vị đă đi vào thành Rājagaha.

 

Dân chúng sau khi nh́n thấy chúa của chư Thiên Sakka đă nói như vầy: -“Chàng thanh niên trẻ này thật đẹp trai! Chàng thanh niên trẻ này thật duyên dáng! Chàng thanh niên trẻ này thật đáng tin! Chàng thanh niên trẻ này là thuộc về ai vậy?” Khi được nói như thế, chúa của chư Thiên Sakka đă nói với đám người ấy bằng bài kệ này:

 

Vị nào là bậc trí tuệ, đă được rèn luyện về mọi mặt, là vị trong sạch, không có đối thủ, là bậc A-la-hán, đấng Thiện Thệ ở thế gian, ta là người phục vụ cho vị ấy.”

 

10. Sau đó, đức Thế Tôn đă đi đến tư dinh của đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, sau khi đến đă ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn cùng với hội chúng tỳ khưu. Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đă tự tay làm hài ḷng và toại ư hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm. Đến khi đức Thế Tôn đă thọ thực xong bàn tay đă rời khỏi b́nh bát, đức vua đă ngồi xuống ở một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đă khởi ư điều này: “Đức Thế Tôn nên ngụ ở nơi nào đây? Đối với ngài, chỗ ấy không nên xa làng mạc lắm, cũng không quá gần, thuận tiện cho việc tới lui, dân chúng có thể đi đến khi nào có ước muốn, ban ngày không đông đảo, ban đêm ít âm thanh, ít tiếng ồn, gió bị hạn chế, tách biệt với dân chúng, thích hợp cho việc thiền tịnh.” Rồi đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đă khởi ư điều này: “Khu vườn Veḷuvana này của chúng ta là không xa làng mạc lắm, cũng không quá gần, thuận tiện cho việc tới lui, dân chúng có thể đi đến khi nào có ước muốn, ban ngày không đông đảo, ban đêm ít âm thanh, ít tiếng ồn, gió bị hạn chế, tách biệt với dân chúng, thích hợp cho việc thiền tịnh, hay là ta nên dâng khu vườn Veḷuvana đến hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu?”

 

11. Sau đó, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đă cầm lấy b́nh nước làm bằng vàng rưới nước lên đức Thế Tôn (nói rằng): - “Bạch ngài, trẫm dâng khu vườn Veḷuvana này đến hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu.” Đức Thế Tôn đă thọ lănh khu vườn. Khi ấy, đức Thế Tôn đă chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha bằng bài Pháp thoại rồi đă từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép khu vườn.”

 

12. Vào lúc bấy giờ, vị du sĩ Sañjaya cư trú tại thành Rājagaha cùng với tập thể du sĩ đông đảo gồm có hai trăm năm mươi vị du sĩ. Vào lúc bấy giờ, Sāriputta và Moggallāna thực hành Phạm hạnh theo du sĩ Sañjaya. Họ đă giao ước với nhau rằng: “Người nào chứng đạt sự bất tử trước phải thông báo cho vị kia hay.” Khi ấy vào buổi sáng, đại đức Assaji đă mặc y cầm y bát đi vào thành Rājagaha để khất thực. Vị ấy có mắt nh́n xuống, đă thành tựu các oai nghi, tạo được niềm tịnh tín khi đi tới bước lui, lúc nh́n ngắm, khi cử động co duỗi.

 

13. Du sĩ Sāriputta đă nh́n thấy đại đức Assaji, là vị có mắt nh́n xuống, đă thành tựu các oai nghi, tạo được niềm tịnh tín khi đi tới bước lui, lúc nh́n ngắm, khi cử động co duỗi, đang đi khất thực trong thành Rājagaha. Sau khi nh́n thấy đă khởi ư điều này: “Đây chính là vị tỳ khưu trong số các vị thật sự là A-la-hán trên thế gian, hoặc là đă đạt được con đường đưa đến quả vị A-la-hán. Hay là ta nên đến gần vị tỳ khưu này và hỏi rằng: ‘Thưa đại đức, đại đức đă được xuất gia có liên quan đến vị nào?’ hoặc là ‘Ai là thầy của đại đức?’ hoặc là ‘Đại đức ưa thích pháp của vị nào?’”

 

14. Khi ấy, du sĩ Sāriputta đă khởi ư điều này: “Không phải lúc để hỏi vị tỳ khưu này, vị ấy đă đi vào xóm nhà và đang đi khất thực. Hay là ta nên đi sát theo sau vị tỳ khưu này là vị biết đạo lộ đang được học tập bởi những kẻ mong cầu sự lợi ích?” Sau đó, khi đă đi khất thực ở trong thành Rājagaha xong đại đức Assaji đă cầm lấy đồ ăn khất thực đi trở về. Khi ấy, du sĩ Sāriputta đă đi đến gần đại đức Assaji, sau khi đến đă tỏ vẻ thân thiện với đại đức Assaji, sau khi trao đổi lời xă giao thân thiện rồi đă đứng ở một bên. Khi đă đứng ở một bên, du sĩ Sāriputta đă nói với đại đức Assaji điều này: - “Thưa đại đức, các giác quan của ngài thật thanh tịnh, màu sắc cơ thể thật trong sáng và thuần khiết. Thưa đại đức, đại đức đă được xuất gia có liên quan đến vị nào? Ai là thầy của đại đức? Đại đức ưa thích pháp của vị nào?”

 

15. - “Này đạo hữu, có vị đại Sa-môn con trai ḍng Sakya, từ ḍng họ Sakya đă xuất gia. Ta đă được xuất gia có liên quan đến đức Thế Tôn ấy. Đức Thế Tôn ấy là đạo sư của ta và ta ưa thích Pháp của đức Thế Tôn ấy.” - “Vị đạo sư của đại đức đă thuyết về điều ǵ? Đă giảng về điều ǵ?” - “Này đạo hữu, ta là vị mới tu, được xuất gia chưa bao lâu, vừa mới đến với Pháp và Luật này, ta không thể thuyết giảng Giáo Pháp một cách chi tiết cho đạo hữu được; tuy nhiên ta sẽ nói cho đạo hữu ư nghĩa một cách tóm tắt.” Khi ấy, du sĩ Sāriputta đă nói với đại đức Assaji điều này: - “Thưa đại đức, hăy là vậy đi.

 

Xin hăy nói ít hoặc nhiều, xin hăy giảng thuần ư nghĩa cho tôi. Tôi chỉ cần ư nghĩa thôi, ngài nói nhiều từ làm chi?”

 

Khi ấy, đại đức Assaji đă nói với du sĩ Sāriputta lời dạy này thuộc về Giáo Pháp:

Các pháp nào có nguồn sanh khởi do nhân, đức Như Lai đă nói về nhân của chúng và về sự diệt tắt của chúng, bậc Đại Sa-môn đă có lời dạy như thế.”

 

Sau đó, khi đă nghe được lời dạy thuộc về Giáo Pháp này th́ Pháp nhăn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đă sanh khởi đến du sĩ Sāriputta: “Điều ǵ có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.”

 

Đây chính là Giáo Pháp, nếu chỉ bấy nhiêu thôi mà đă thấu triệt được Niết Bàn không sầu muộn (là pháp) đă không được nh́n thấy, đă trôi qua hàng vạn kiếp.”

 

16. Sau đó, du sĩ Sāriputta đă đi đến gặp du sĩ Moggallāna. Du sĩ Moggallāna đă nh́n thấy du sĩ Sāriputta từ đằng xa đang đi lại, sau khi nh́n thấy đă nói với du sĩ Sāriputta điều này: - “Này bạn, các giác quan của bạn thật thanh tịnh, màu sắc cơ thể thật trong sáng và thuần khiết. Này bạn, chắc hẳn là bạn đă chứng đạt sự bất tử?” - “Này bạn, đúng vậy. Tôi đă chứng đạt sự bất tử.” - “Này bạn, bạn đă chứng đạt sự bất tử bằng cách như thế nào?” - “Này bạn, ở đây tôi đă nh́n thấy vị tỳ khưu Assaji, là vị có mắt nh́n xuống, đă thành tựu các oai nghi, tạo được niềm tịnh tín khi đi tới bước lui, lúc nh́n ngắm, khi cử động co duỗi, đang đi khất thực trong thành Rājagaha. Sau khi nh́n thấy đă khởi ư điều này: ‘Đây chính là vị tỳ khưu trong số các vị thật sự là A-la-hán trên thế gian, hoặc là đă đạt được con đường đưa đến quả vị A-la-hán. Hay là ta nên đến gần vị tỳ khưu này và hỏi rằng: Thưa đại đức, đại đức đă được xuất gia có liên quan đến vị nào? hoặc là: Ai là thầy của đại đức? hoặc là: Đại đức ưa thích pháp của vị nào?’ Này bạn, khi ấy tôi đây đă khởi ư điều này: ‘Không phải lúc để hỏi vị tỳ khưu này, vị ấy đă đi vào xóm nhà và đang đi khất thực, hay là ta nên đi sát theo sau vị tỳ khưu này là vị biết đạo lộ đang được học tập bởi những kẻ mong cầu sự lợi ích?’

 

17. Này bạn, sau khi đi khất thực ở trong thành Rājagaha xong, vị tỳ khưu Assaji đă cầm lấy đồ ăn khất thực đi trở về. Này bạn, khi ấy tôi đă đi đến gần vị tỳ khưu Assaji, sau khi đến đă tỏ vẻ thân thiện với vị tỳ khưu Assaji, sau khi trao đổi lời xă giao thân thiện rồi đă đứng ở một bên. Này bạn, khi đă đứng một bên tôi đă nói với vị tỳ khưu Assaji điều này: ‘Thưa đại đức, các giác quan của ngài thật thanh tịnh, màu sắc cơ thể thật trong sáng và thuần khiết. Thưa đại đức, đại đức đă được xuất gia có liên quan đến vị nào? Ai là thầy của đại đức? Đại đức ưa thích pháp của vị nào?’

 

‘Này đạo hữu, có vị đại Sa-môn con trai ḍng Sakya, từ ḍng họ Sakya đă xuất gia. Ta đă được xuất gia có liên quan đến đức Thế Tôn ấy. Đức Thế Tôn ấy là đạo sư của ta và ta ưa thích Pháp của đức Thế Tôn ấy.’ ‘Vị đạo sư của đại đức đă thuyết về điều ǵ? Đă giảng về điều ǵ?’ ‘Này đạo hữu, ta là vị mới tu, được xuất gia chưa bao lâu, vừa mới đến với Pháp và Luật này, ta không thể thuyết giảng Giáo Pháp một cách chi tiết cho đạo hữu được; tuy nhiên ta sẽ nói cho đạo hữu ư nghĩa một cách tóm tắt.’ Này bạn, khi ấy tôi đă nói với đại đức Assaji điều này: ‘Thưa đại đức, hăy là vậy đi.

 

Xin hăy nói ít hoặc nhiều, xin hăy giảng thuần ư nghĩa cho tôi. Tôi chỉ cần ư nghĩa thôi, ngài nói nhiều từ làm chi?”

 

Này bạn, khi ấy vị tỳ khưu Assaji đă nói với tôi lời dạy này thuộc về Giáo Pháp:

 

Các pháp nào có nguồn sanh khởi do nhân, đức Như Lai đă nói về nhân của chúng và về sự diệt tắt của chúng, bậc Đại Sa-môn đă có lời dạy như thế.”

 

Sau đó, khi đă nghe được lời dạy thuộc về Giáo Pháp này th́ Pháp nhăn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đă sanh khởi đến du sĩ Moggallāna: ‘Điều ǵ có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.’

 

Đây chính là Giáo Pháp, nếu chỉ bấy nhiêu thôi mà đă thấu triệt được Niết Bàn không sầu muộn (là pháp) đă không được nh́n thấy, đă trôi qua hàng vạn kiếp.”

 

18. Sau đó, du sĩ Moggallāna đă nói với du sĩ Sāriputta điều này: - “Này bạn, chúng ta hăy đi đến với đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn ấy là bậc Đạo Sư của chúng ta.” - “Này bạn, hai trăm năm mươi du sĩ này sống ở đây đang nương tựa vào chúng ta, và đang trông nom chúng ta, chúng ta hăy thông báo đến các vị ấy, các vị suy tính như thế nào th́ các vị sẽ làm như thế ấy.”

 

19. Sau đó, Sāriputta và Moggallāna đă đi đến gặp các vị du sĩ ấy, sau khi đến đă nói với các vị du sĩ ấy điều này: - “Này các đạo hữu, chúng tôi đi đến với đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn ấy là bậc Đạo Sư của chúng tôi.” - “Chúng tôi sống ở đây nương tựa vào các đại đức, và đang trông nom các đại đức, nếu các đại đức sẽ thực hành Phạm hạnh theo vị đại Sa-môn hết thảy tất cả chúng tôi sẽ thực hành Phạm hạnh theo vị đại Sa-môn.”

 

Sau đó, Sāriputta và Moggallāna đă đi đến gặp du sĩ Sañjaya, sau khi đến đă nói với du sĩ Sañjaya điều này: - “Này đại đức, chúng tôi đi đến với đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn ấy là bậc Đạo Sư của chúng tôi.” - “Này các đại đức, thôi đủ rồi. Chớ có đi. Chính tất cả ba chúng ta sẽ quản trị nhóm người này.”

 

Đến lần thứ nh́, ―(như trên)― Đến lần thứ ba, Sāriputta và Moggallāna đă nói với du sĩ Sañjaya điều này: - “Này đại đức, chúng tôi đi đến với đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn ấy là bậc Đạo Sư của chúng tôi.” - “Này các đại đức, thôi đủ rồi. Chớ có đi. Chính tất cả ba chúng ta sẽ quản trị nhóm người này.”

 

20. Sau đó, Sāriputta và Moggallāna đă đưa hai trăm năm mươi du sĩ ấy đi đến Veḷuvana. Về phần du sĩ Sañjaya, ngay tại chỗ ấy máu nóng đă ứa ra từ miệng.

 

Đức Thế Tôn đă nh́n thấy Sāriputta và Moggallāna từ đằng xa đang đi lại, sau khi nh́n thấy đă bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, họ là hai người bạn, Kolita và Upatissa, đang đi đến. Họ sẽ trở thành một cặp đệ tử của ta, một cặp (đệ tử) xuất sắc, đứng đầu.

 

Khi hai vị có lănh vực trí tuệ thâm sâu, (đă chứng) Niết Bàn vô thượng, đă được giải thoát, c̣n chưa đến được Veluvana, bậc Đạo Sư đă nói với các vị (tỳ khưu) ấy rằng:

 

Họ là hai người bạn, Kolita và Upatissa, đang đi đến. Họ sẽ trở thành một cặp đệ tử của ta, một cặp (đệ tử) xuất sắc, đứng đầu.”

 

21. Sau đó, Sāriputta và Moggallāna đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă quỳ xuống đê đầu đảnh lễ ở hai bàn chân của đức Thế Tôn và đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, chúng con có thể xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn không? Chúng con có thể tu lên bậc trên không?” Đức Thế Tôn đă nói rằng: - “Này các tỳ khưu, hăy đến. Pháp đă khéo được thuyết giảng, hăy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.” Chính lời nói ấy đă là sự tu lên bậc trên của các đại đức ấy.

 

22. Vào lúc bấy giờ, những người con trai gia đ́nh danh giá ở xứ Magadha là những người có nhiều tiếng tăm thực hành Phạm hạnh theo đức Thế Tôn. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Sa-môn Gotama đă tạo ra khuynh hướng không con cái, Sa-môn Gotama đă gây nên cảnh vợ không chồng, Sa-môn Gotama đă gây nên sự đổ vỡ của các gia đ́nh. Hiện nay, cùng với ông ta một ngàn vị đạo sĩ bện tóc đă xuất gia, hai trăm năm mươi du sĩ này của Sañjaya đă xuất gia, và những người con trai gia đ́nh danh giá này ở xứ Magadha là những người có nhiều tiếng tăm đang thực hành Phạm hạnh theo Sa-môn Gotama.” Hơn nữa, khi gặp các vị tỳ khưu họ đă quở trách bằng bài kệ này:

 

Quả là vị đại Sa-môn đă đi đến thành Giribbaja thuộc xứ Magadha. Sau khi đă dẫn đi toàn bộ Sañjaya, giờ đây sẽ dẫn người nào đi?

 

23. Các tỳ khưu đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế tôn. - “Này các tỳ khưu, tiếng đồn đăi ấy sẽ không tồn tại lâu, sẽ tồn tại chỉ được bảy ngày, khi trải qua bảy ngày th́ sẽ biến mất. Này các tỳ khưu, chính v́ việc ấy những người nào quở trách các ngươi bằng bài kệ này:

 

Quả là vị đại Sa-môn đă đi đến thành Giribbaja thuộc xứ Magadha. Sau khi đă dẫn đi toàn bộ Sañjaya, giờ đây sẽ dẫn người nào đi?

 

Các ngươi hăy quở trách lại họ bằng bài kệ này:

 

Đúng vậy, các bậc Đại Hùng các đức Như Lai dẫn dắt bằng Chánh Pháp. Những người có sự nhận thức th́ có điều ganh tỵ ǵ với những vị đang dẫn đi bằng Chánh Pháp?

 

Vào lúc bấy giờ, dân chúng khi gặp các vị tỳ khưu đă quở trách bằng bài kệ này:

 

Quả là vị đại Sa-môn đă đi đến thành Giribbaja thuộc xứ Magadha. Sau khi đă dẫn đi toàn bộ Sañjaya, giờ đây sẽ dẫn người nào đi?

 

Các vị tỳ khưu đă quở trách lại những người ấy bằng bài kệ này:

 

Đúng vậy, các bậc Đại Hùng các đức Như Lai dẫn dắt bằng Chánh Pháp. Những người có sự nhận thức th́ có điều ganh tỵ ǵ với những vị đang dẫn đi bằng Chánh Pháp?

 

24. Dân chúng nghĩ rằng: - “Nghe nói các Sa-môn Thích tử dẫn dắt bằng Chánh Pháp không phải bằng Phi Pháp.” Tiếng đồn ấy đă tồn tại chỉ có bảy ngày, sau khi trải qua bảy ngày đă biến mất.

 

Dứt sự xuất gia của Sāriputta và Moggallāna.

 

Dứt tụng phẩm thứ tư.

 

--ooOoo--

 


 

[1] Ajapālanigrodha: Bản dịch tiếng Anh của Rhys Davids and Hermann Oldenberg dẫn chứng tài liệu và giải thích rằng: 1/ Các người chăn dê dùng bóng mát của cây si (nigrodha) để nghỉ ngơi nên được gọi là cây si của những người chăn dê. 2/ Cây si đă được một đứa bé chăn dê trồng trong thời gian Bồ-tát Siddhattha hành khổ hạnh sáu năm.

[2] Ngài Buddhaghosa giải thích rằng đức Phật đă chú nguyện thành một b́nh bát mới từ bốn b́nh bát bằng đá ấy (VinA. v, 960).

[3] Nghĩa là đi đến nương nhờ đức Thế Tôn và đi đến nương nhờ Giáo Pháp, v́ Hội Chúng tỳ khưu vào lúc bấy giờ chưa được h́nh thành (ND).

[4] Đức Thế Tôn đề cập đến sự phục vụ của năm vị này trong thời gian Ngài hành khổ hạnh sáu năm. Điểm cần lưu ư là đức Thế Tôn dùng từ “bhikkhu” dịch là “tỳ khưu” để gọi năm vị này dầu các vị chưa trở thành đệ tử và chưa tu tập theo Giáo Pháp của Ngài (ND).

[5] Lúc này năm vị không gọi đức Phật là āvuso nữa mà gọi là bhante, tỏ ư tôn trọng (ND).

[6] Dịch sát nghĩa sẽ là “có sự tạo ra con mắt, có sự tạo ra trí tuệ” (ND).

[7] Nói cho gọn hơn là Bát Chánh Đạo gồm có: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh cần, chánh niệm, chánh định (ND).

[8]Aññākoṇḍañña = Aññā + koṇḍañña nghĩa là Koṇḍañña đă hiểu. Aññā được trích từ lời nói của đức Phật là: “Aññāsi vata bho Koṇḍañño. Aññāsi vata bho Koṇḍañño” rồi ghép vào phía trước tên Koṇḍañña (ND).

[9] Tốt hơn nên dịch là: ‘Sắc không phải là Ngă’ hoặc ‘Sắc không phải là Ta’ (ND).

[10] Khoái lạc sanh lên do năm giác quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, và thân (ND).

[11] Lúc ấy trên thế gian này đă có sáu vị tỳ khưu A-la-hán đại diện cho Tăng Bảo. V́ thế người gia chủ này được quy y (đi đến nương nhờ) Tam Bảo và đă đọc ba câu là: “Quy y đức Thế Tôn, Quy y Giáo Pháp, và Quy y Hội Chúng tỳ khưu,” (ND).

[12] Saṅgha: được dịch âm thành Tăng-già, nói ngắn gọn là Tăng. Saṅgha có ư nghĩa thông thường là hội chúng, tập thể, v.v... và được thiêng liêng hóa khi đề cập đến ba ngôi Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng. Điều cần lưu ư ở đây là từ saṅgha cũng được dùng cho tỳ khưu ni: bhikkhunīsaṅgha = hội chúng tỳ khưu ni, tỳ khưu ni Tăng (tương tợ như ở bhikkhusaṅgha = hội chúng tỳ khưu, tỳ khưu Tăng). Tuy nhiên, hiện nay có khuynh hướng dùng chữ ‘Tăng’ chỉ dành riêng cho phái Nam ví dụ như: “Tứ chúng gồm có Tăng, Ni, Thiện Nam, Tín Nữ,” hoặc “Kính bạch chư đại đức Tăng Ni,” hoặc b́nh dân hơn như “ông Tăng bà Ni,” v.v... Chữ ‘Tăng’ này chỉ tương đương với từ ‘bhikkhu = tỳ khưu’ chứ không phải là saṅgha như ở trên (ND).

[13] Ngài Buddhaghosa cho biết đây là các lời kệ được lưu truyền về sau này  (VinA. v, 971).

[14] Vải paṃsukūla: Chủ yếu là vải quấn thây người chết được đem bỏ ở băi tha ma, hoặc là vải nhặt ở các đống rác. Ở một vài chỗ, chúng tôi đă dịch là ‘vải dơ bị quăng bỏ’ (ND).

[15] Trái Jambu là trái mận (tiếng miền Nam), hoặc đào đỏ (tiếng miền Trung).

[16] Jambudīpa, dịch là đảo Jambu, tức là bán đảo Ấn Độ (ND).

[17] Dvādasa + nahuta = 12 nahuta. Ngài Buddhaghosa giải thích là: 1 nahuta = 10.000, như vậy 12 nahuta = 120.000 (VinA. v, 972). Trong khi đó từ điển “A dictionary of the Pali Language” của Robert Cæsar Childers ghi là: 1 nahuta = 10.000.0004, tức là 28 con số không (0) sau con số một, như thế 12 nahuta là một con số quá lớn, không hợp lư trong trường hợp này. 

[18] Đấng Thập Trú (dasavāso): là vị có sự cư trú trong mười pháp của bậc Thánh. H.T. Minh Châu dịch là ‘Mười Thánh cư’ (Xin xem Kinh Trường Bộ, kinh Phúng Tụng, phần Mười Pháp, hoặc Kinh Tăng Chi Bộ, chương 10 pháp, phẩm 2).

[19] Thông hiểu mười pháp (dasadhammavidū): là vị thông hiểu về mười đường lối tạo nghiệp (liên quan đến thân có 3, liên quan đến khẩu có 4 và liên quan đến ư có 3).

[20] Thành đạt mười điều (dasabhi cupeto): là thành tựu mười pháp của bậc vô học gồm có: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh cần, chánh niệm, chánh định, chánh trí, chánh giải thoát (Kinh Tăng Chi Bộ, chương 10 pháp, phẩm 11). Ba điều này được giải thích dựa theo Chú Giải (VinA. v, 973).

 

 

   
 

| 00 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 |

 
 

<Mục Lục><Đầu Trang>