|
TUỆ & GIÁC NGỘ BS. Phạm Doăn
|
![]() |
||
|
Phần ba: Tuệ và sự Giác Ngộ của Đạo Phật I. Đạo
Phật thực hiện giác ngộ bằng tri tuệ II. Tuệ
do học hiểu và Tuệ do trải nghiệm III.
Tuệ trong ư nghĩa Giác ngộ của Đạo Phật IV. Mô
tả qui tŕnh tâm khi giác ngộ V.
Trong khi chờ đợi sự tái phát hiện một đạo lộ tu tập thực sự nguyên thủy ***** I. Đạo Phật thực hiện giác ngộ bằng trí tuệ 1. Các tôn giáo và sự thần bíCác tôn giáo luôn xuất hiện
trong không khí thần bí, linh thiêng và sự sùng bái. Nơi nào tôn giáo
xuất hiện nơi đó lư trí bị đẩy lui. Thần bí, linh thiêng và sùng bái có
sức mạnh riêng của chúng. Những năng lực tinh thần phát sinh từ sự thần
bí, linh thiêng và sùng bái đă được nhiều tôn giáo biết đến và sử dụng.
Các bí thuật tâm linh thường dựa trên nguyên lư đưa tâm đi ngược ḍng
trở về, để t́m về với bản thể uyên nguyên và những năng lực nguồn cội.
Tại cội nguồn này, con người có thể nối kết lại với cái đại ngă, nơi mà
từ đó nó đă sinh ra (Đại ngă là chủ thuyết chính của Vệ Đà). Ngay từ các
tôn giáo sơ khai, con người bộ lạc đă biết nhảy múa một cách buông thả,
không kềm chế quanh đống lửa để được ḥa nhập với năng lực thần thánh.
Sau này, với sự hiểu biết nhiều hơn, các giáo phái của Ấn Độ c̣n tiến xa
hơn nữa trong kỹ thuật khơi dậy các sức mạnh bí mật tích chứa trong vô
thức. Các âm thanh chủng tự (seed syllables), các ấn (mudra), các chú
(mantra), các hóa thần (Yidam), các mandala, năng lực tính dục và các
nghi thức cấm kỵ (secret rituals) v.v…được sử dụng để ức chế ư thức lư
trí và đánh thức những năng lực từ vô thức sâu thẳm bên trong. Các giáo
phái Ấn Độ hiện nay đă có mặt trên khắp thế giới để truyền bá con đường
thực hiện tâm linh theo nguyên lư ngược ḍng này. Một số giáo phái dựa
trên nguyên lư của niềm tin, t́nh yêu, sự khuất phục đối với thần thánh
(surrender), để được ḥa nhập cùng với thần thánh, ví dụ các giáo phái
Bhakti yoga như Shaivism, Vaishnavism, and Shaktism [35]. Một số giáo
phái khác nhấn mạnh tính quan trọng của hệ truyền thừa, của năng lực
được truyền đến từ vị thày c̣n sống (San Mat), của các bí thuật về
truyền tâm, gia tŕ, chúc phúc…Tuy nhiên, tất cả không ǵ khác hơn sự
thực hiện tự kỷ ám thị (autosuggestion) cho đa số tín đồ có bản chất tâm
lư yếu đuối. 2. Đạo Phật và Trí tuệNgay từ hơn hai ngàn năm trước, Đạo Phật đă xuất hiện như một mặt trời với ánh sáng rực rỡ kỳ lạ. Con đường tu chứng của Đạo Phật hoàn toàn không có dấu vết của sự thần bí, linh thiêng và sùng bái giống như mô h́nh chung của đa số các tôn giáo tại phương Đông nói chung và Ấn Độ nói riêng. Không có các vị thần biểu tượng cho các năng lực thần thánh, không có ấn chú linh phù, không có truyền tâm (initiation), không có gia tŕ, phù hộ v.v…Ngược lại, sự tu tập và giác ngộ của giáo pháp nguyên thủy, hoàn toàn dựa trên sự phát triển lư trí tự thân để thăng hoa các tuệ thế gian thành các trí xuất thế gian. Chính trí tuệ đưa đến giác ngộ tối thượng của Đạo Phật chứ không phải là các bí thuật câu thông với năng lực thần thánh nằm trong vô thức. Chính trí tuệ mạnh mẽ của con người đă đưa đến giác ngộ tối thượng, chứ không phải sự qui phục (surrender) đấng tối cao, hay vong thân (alienation) vào thần thánh, vào h́nh ảnh của giáo chủ ! Chỉ những ngàn năm sau này, khi suy yếu, Đạo Phật mới bị người đời sau làm lệch lạc bởi các quan niệm tôn giáo thần bí xưa cũ tại Ấn Độ như đă vừa nói đến. Phật giáo phát triển cũng có nhắc tới “Duy Tuệ thị nghiệp” nhưng ư nghĩa của Tuệ trong chánh pháp đă bị sự “phát triển” làm sai lệch, nên vẫn chỉ là một khẩu hiệu không hơn. Phục hồi giáo pháp nguyên thủy, có nghĩa là làm sáng tỏ lại nguyên lư “giác ngộ bằng trí tuệ” và phải hiểu trí tuệ là cái vốn xuất phát và thăng hoa từ ư thức của con người tu tập. 3. Hai con đường giác ngộ khác nhauKhông thể gọi một tôn giáo hoặc
một con đường tâm linh nào là tốt hơn, chỉ có thể gọi cái nào là phù hợp
hơn với từng cá thể. Tâm trí của đa số con người luôn phù hợp với những
kiểu tu tập nhẹ nhàng, không đặt ra mục đích giải thoát. Đám đông chỉ
cần một sự sự an lạc có tính cách “tâm lư trị liệu” qua các loại thiền
“thư giản”. C̣n lại là một thiểu số rất ít người tu, thực sự có khát
vọng giải thoát. Đối với số người rất ít này, tùy theo nghiệp lực, mức
tiến hóa tâm linh, tŕnh độ trí tuệ, sẽ bị thúc đẩy về một trong hai con
đường giải thoát, bên ngoài có vẻ giống nhau nhưng cứu cánh khác nhau : Thế giới quan của Phật giáo, bằng thực chứng, đă mô tả vũ trụ gồm ba tầng chính gọi là Tam Giới (Triloka). Trong mỗi Giới (loka) lại gồm các cơi (bhumi) khác nhau. Tổng cộng là 31 cơi như sơ đồ bên dưới. Thấp nhất là Địa Ngục và cao nhất là cơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Các hữu sinh đều tái sinh luân hồi trong các cơi giới này. Giải thoát của Đạo Phật là giải thoát khỏi sự tái sinh luân hồi trong các tất cả các cơi giới, để an trụ trong Nibbana, một trạng thái hoàn toàn tịch tĩnh.
II. Tuệ do học hiểu và Tuệ do trải nghiệmLúc chưa có chữ viết, con người thời xưa chỉ có thể học hiểu qua sự lắng nghe. Khoảng bốn trăm năm sau thời Đức Phật mới có chữ viết, lúc này ngoài học hiểu do nghe, con người có thể học hiểu do đọc. Sự học hiểu do nghe hay đọc phải qua trung gian các khái niệm qui ước của ngôn ngữ, do đó không thể nào nắm trọn được sự thực chân lư (paramatthasacca). Như vậy để đạt được sự thực chân lư người tu cần có các trải nghiệm trực tiếp bằng thiền. Trải nghiệm trong thiền có khả năng thấu hiểu các thực tại mà các giác quan hay các khái niệm ngôn ngữ không thể chạm tới được. 1. Tuệ do học hiểu và Tuệ do trải nghiệmTuệ do học hiểu các “khái niệm
qui ước” khác với Tuệ do trải nghiệm “sự thực chân lư”. Hai loại tuệ này
có thể bổ sung hổ tương lẫn nhau, nhưng hoàn toàn khác nhau, xét về khả
năng thực hiện giác ngộ. 2. Tuệ giác ngộ có thể được lưu lại từ kiếp trướcTái sanh là quan điểm cơ sở của Đạo Phật và nhiều tôn giáo khác ở Ấn Độ. Con người có thể biết được tái sanh nhờ năng lực của thắng trí (các thần thông) phát triển từ thiền định. Thần thông có thể biết được kiếp quá khứ với nhiều chi tiết. Những người đạt mức định an-chỉ cũng có thể thiền quán được ngũ thủ uẩn trong quá khứ của kiếp vừa qua, nhất là vào giai đoạn hấp hối [37] Chỉ với điều này, cũng đủ giúp người tu nhận ra luân hồi và tái sanh là thực có. Tất cả thiện, ác, minh hay vô minh, từng tâm vi tế của kiếp hiện tại cũng chịu luân hồi để ngủ ngầm trong kiếp tái sinh. Ngược lại, tất cả tâm trong kiếp hiện tại cũng bị ảnh hưởng từ quá khứ kiếp trước. Vào giây phút hấp hối, có bốn tâm là tâm hộ kiếp (bhavaṅga-citta), tốc hành tâm cận tử (maraṇāsanna-javana), tâm tử (cuti-citta) và tâm kiết sanh (paṭisandhi-citta), tất cả bốn tâm đều bắt chung một đối tượng, mà quan trọng nhất là tâm hộ kiếp. Như thế, khi tái sanh, tâm hộ kiếp luôn chứa trong nó “đối tượng cũ” của kiếp trước. Nếu một người tu phải chết trong khi chưa đi hết con đường tu chứng, mà chỉ đạt được một số tuệ nào đó, th́ tuệ này sẽ hiện hữu trong bhavaṅga của kiếp tái sinh. Lịch sử Đạo Phật cũng có những trường hợp đắc chứng nhanh chóng do tuệ có sẵn trong tâm hộ kiếp. Một vị đă có những tuệ trong kiếp quá khứ sẽ có thể hưởng được những lợi ích cho việc giác ngộ trong kiếp hiện tại. 3. Năm tôn giả giác ngộ do nghe hiểu hay do thiền quán?Sau khi đạt Đại Giác Ngộ, Đức
Phật đi đến Isipatana, Varanasi và giảng kinh Chuyển Pháp Luân cho năm
vị tôn giả nhóm Kondanna. Lịch sử viết lại rằng sau khi nghe kinh, năm
vị tôn giả liền mau chóng đắc chứng sự giác ngộ. Và hơn thế nữa, lại đắc
cả bốn tuệ Phân tích, vốn là những trí phi thường (có liệt kê trong 73
trí ở mục bên trên). Về thời gian đắc chứng rất nhanh chóng này, có
truyền thuyết cho là ngay sau khi nghe xong, hoặc năm ngày sau v.v…Dù có
là năm ngày hay năm tuần th́ sự đắc chứng cũng quá sức nhanh chóng phi
thường đối với mọi người như chúng ta. Với sự kiện đắc chứng mau lẹ
“ngay sau khi nghe xong” được ghi lại trong kinh điển, nên có quan điểm
cho rằng, sự giác ngộ có thể phát sinh do nghe hiểu hoặc đọc hiểu! Sự
thực như thế nào? Sự thực năm trưởng lăo là những đạo sư đă đắc chứng và
thuần thục tất cả các bậc thiền định. Gọi là thuần thục là khi có thể
nhập xuất thiền như ư muốn, ngay trong tức khắc, lâu bao nhiêu cũng được.
Khi nghe giáo huấn từ Đức Phật, các vị trưởng lăo đă thực hành ngay minh
sát, thấy rơ các pháp chân đế, tính vô thường, vô ngă của các uẩn, nhận
thấy rơ Khổ Đế (dukkha-sacca), Khổ Tập Đế (samudaya-sacca) v.v… và nhanh
chóng nhân ra ngay Diệt Đế và Đạo Đế. Vậy sự đắc chứng nhanh chóng là
hoàn toàn hợp lư. Hơn nữa, v́ sau đó các ngài c̣n đắc chứng “tứ tuệ phân
tích”, ta có thể đoán rằng vào thời của các Phật trong quá khứ, các ngài
đă từng tu hành đến những tuệ rất cao. Một người tu tập đến những tuệ
rất cao mà chưa đắc chứng th́ có thể đó là tuệ Hành Xả (Saṅkhārūpekkhā-ñāṇa)
một tuệ đi ngay trước tuệ Thuận Thứ (Anuloma-ñāṇa) của một vị nhập lưu.
[38] III. Tuệ trong ư nghĩa Giác ngộ của Đạo PhậtTrong khi tất cả các đạo sư của các tôn giáo hay pháp môn khác, hể nói đến tu chứng hay giác ngô là nói đến một lănh vực mịt mù hương khói, thần bí, linh thiêng! Th́ ngược lại, sự tu chứng và giác ngộ trong giáo pháp của Đức Phật, thực sự lại có một nguyên lư rất minh bạch, rơ ràng. Giáo pháp của Đức Phật đạt tới giác ngộ bằng sự thấy như thực các pháp chân đế (paramattha dhamma) và các sự thực tuyệt đối (paramattha sacca). Nhờ thấy như thực, tuệ phát triển thành các trí giải thoát. Như vậy, trong Đạo Phật, chính TUỆ là yếu tố cơ bản nhất và trực tiếp nhất đưa con người tới giác ngộ. Khi Tuệ được xác nhận là yếu tố trực tiếp nhất đưa đến giác ngộ của Đạo Phật, th́ mọi sự mơ hồ về sự giác ngộ trong giáo pháp nguyên thủy sẽ bị loại trừ. 1. Tuệ là yếu tố trực tiếp đưa tới giác ngộ chứ không phải là giới hạnhQuan điểm quần chúng thường hiểu lầm mối quan hệ giữa đạo đức và Giác ngộ. Khi chuyển phàm thành thánh th́ các lậu-hoặc, ô nhiễm và các tâm bất thiện giảm đi. Bậc A La Hán th́ hoàn toàn không c̣n lậu hoặc, ô nhiễm và tâm bất thiện nữa. Đối với bậc giác ngộ th́ bất cứ hành vi nào cũng thể hiện tính đạo đức, nhưng ngược lại người có hành vi đạo đức không chắc là người giác ngộ! Hiển nhiên là như thế. Đạo đức thế gian không có tính tuyệt đối, phần nhiều là do qui ước, khác biệt nhau tùy theo thời đại, nơi chốn, các cộng đồng khác nhau. Đạo đức ngày xưa có thể khác với ngày nay, ở quốc gia này khác với quốc gia kia. Mặc dầu con đường tu tập bắt đầu bằng giới hạnh hay đạo đức, nhưng giới hạnh hay đạo đức không phải là mục đích của Đạo Phật. Giới hạnh, qui định bởi bộ Luật, là phương tiện chủ yếu bảo vệ tu sĩ tránh xa sự ô nhiễm của các tác nhân bất thiện. Bô Luật cũng c̣n mang những ư nghĩa sâu xa hơn nữa, nên phân tích ư nghĩa của bộ Luật không phải là chuyện dễ dàng. Tại đây, chỉ nhấn mạnh ư nghĩa và vai tṛ gián tiếp của bộ Luật trong tiến tŕnh giác ngộ. Dưới góc nh́n của Thanh Tịnh Đạo, giới hạnh chỉ là phương tiện thanh tịnh tâm. Tâm thanh tịnh mới thực hiện thành công các bậc định chứng. Rồi tiếp đến, các định chứng cũng chỉ là phương tiện để thực hành thiền quán (sự phối hợp đă được tŕnh bày nhiều lần). Thiền quán phải nh́n thấy như thực các pháp chân đế, để phát triển được Tuệ giải thoát. Chính Tuệ mới là nguyên nhân trực tiếp đưa đến giác ngộ. Đạo đức, Giới hạnh, không phải là nguyên nhân trực tiếp đưa đến Giác ngộ. Khi đắc quả sa môn đầu tiên (sotàpatti), vị thánh nhập lưu đoạn trừ được ba trong mười kiết sử (trói buộc), đó là thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ. Giới cấm thủ gồm Giới+ nghi thức + sự bám víu (Tiếng Pali: Sīlabbataparāmāsa = sīla + vata + parāmāsa). Sự chấp thủ vào giới luật và nghi thức, không c̣n là vấn đề phải quan tâm, đối với một vị Thánh nhập lưu. Tâm một vị Thánh nhập lưu (stream entry) tự động vận hành “theo ḍng”, mà mọi ngôn ngữ, ư thức hay hành vi sẽ không phạm vào giới luật. Như vậy: Sự diệt trừ “Giới cấm thủ”, một trong trong mười trói buộc (kiết sử, fetters), phải được hiểu như sau: người tu trước khi tu chứng luôn phải bị trói buộc vào giới luật. Khi nhập lưu rồi sẽ không bị trói buộc nữa! Cách giải thích cho rằng sự diệt trừ Giới cấm thủ là không c̣n chấp thủ vào giới cấm của ngoại đạo là hoàn toàn vô lư, v́ một người đă tu theo Đạo Phật không có lư do ǵ để nắm giữ các nghi thức và giới luật của ngoại đạo cho tới tận ngày đắc quả Thánh! Một vị chưa tu chứng th́ làm bất cứ động tác ǵ, quay sang phải hay sang trái cũng đều có thể chạm vào giới luật. Một vị A La hán th́ luôn luôn thong dong tự tại, có thể làm bất cứ điều ǵ mà không bao giờ vi phạm giới! V́ sao? V́ mọi ngôn ngữ, suy nghĩ hay hành vi của vị A La Hán đều xuất phát từ một tâm không có ô nhiễm hay bất cứ lậu hoặc nào. Một vị Thánh không c̣n khả năng vi phạm giới th́ khái niệm “giữ” giới trở thành vô nghĩa. Một hoa sen không cần phải có gắng giữ cho bùn không làm ô nhiễm v́ cấu trúc của hoa sen là không thể lấm bùn. Thấu hiểu được vai tṛ của nghi thức và giới luật chỉ là phương tiện tu tập sẽ giúp người tu định hướng rơ ràng hơn. 2. Tuệ là yếu tố trực tiếp đưa tới giác ngộ chứ không phải các năng lực thần bíSự giác ngộ trong Đạo Phật,
nhất là thời kỳ sau khi Phật nhập diệt, đă bị ảnh hưởng rất nhiều bởi
các quan điểm thần bí của Ấn Độ giáo. Tính thần bí và bí truyền của sự
tu chứng, cũng như tính sùng bái vai tṛ của giáo chủ, của hệ truyền
thừa, là một đặc điểm của triết lư Vệ Đà. Có lẽ đó là một cách mà giai
cấp Bà La Môn dùng để khống chế các giai cấp khác trong xă hội Ấn Độ,
ḥng mưu cầu những lợi ích riêng cho giai cấp của ḿnh. Các giáo phái
xuất phát từ Ấn Độ giáo như Bà La Môn, đạo Sikh, San Mat v.v…đặc biệt là
các giáo phái bí mật (esoteric), thường nhấn mạnh sự giác ngộ xảy ra do
trao truyền năng lực thần bí của một guru hay minh sư. Các nghi lễ nhập
môn đ̣i hỏi việc thề bồi trong nghi thức bí mật, nhằm cột buộc tín đồ
trong suốt cuộc đời. Đối với một số giáo phái, các pháp truyền tâm, khai
tâm (initiation) cũng được tin rằng là điều kiện bắt buộc của giác ngộ.
Đặc điểm của các giáo phái bí mật (esoteric sects) là không chia sẻ. Một
câu thần chú cũng dấu diếm, một kỹ thuật để thiền cũng dấu diếm v.v…tất
cả đều là các mánh lới (tricks) hoặc nhằm kích động năng lực của ḷng
tin, hoặc nhằm khống chế tâm trí (mind control) tín đồ. Giáo pháp cao
thượng của Đức Phật Gautam đă do ngài tự thân thực hành để giác ngộ, sau
đó được giảng dạy công khai, không dấu diếm, không bí truyền: Kinh Đại
Bát Niết bàn, đoạn 25: “…Này Ananda, chúng Tỷ-kheo c̣n mong mỏi ǵ nữa ở
Ta! Này Ananda, Ta đă giảng Chánh pháp, không có phân biệt trong ngoài (mật
giáo và không phải mật giáo), v́ này Ananda, đối với các Pháp, Như Lai
không bao giờ là vị Đạo sư c̣n nắm tay (c̣n giữ lại một ít mật giáo chưa
giảng dạy). Sự giác ngộ trong giáo pháp của Đức Phật rất là minh bạch.
Các tuệ và trí cần thiết đă được đă được hiểu rơ, th́ sự giác ngộ (dù
rất phi thường), cũng được hiểu rơ giống như vậy. Trong giáo pháp nguyên
thủy, sự giác ngộ tối thượng cũng có thể được mô tả chi tiết đến từng
sát na tâm. 3. Tuệ, do trải nghiệm bằng Tuệ quán, trực tiếp đưa tới giác ngộ c̣n Tuệ do nghe hay đọc chỉ là gián tiếp.Như đă đề cập, sự học hiểu do nghe và đọc không nhận biết được sự thực chân lư v́ phải dùng ngôn ngữ làm trung gian. Ngôn ngữ hay biểu tượng chỉ là khái niệm qui ước, (conventional) luôn bất lực khi t́m hiểu sự thực nội hàm trong mọi vật hay hiện tượng. Pháp học là cần thiết, nhưng sự học không sinh ra đủ tuệ để thực hiện giác ngộ. Chỉ có trải nghiệm qua pháp hành mới có thể sinh ra những tuệ trực tiếp đưa đến giác ngộ. Thinh Văn (hearer) không phải là bậc Thánh chỉ do nghe hiểu mà giác ngộ. Thinh Văn là cách gọi dùng để phân biệt một vị A La Hán đệ tử, phải nghe lại giáo pháp từ một vị Phật Toàn giác mới đạt giác ngộ. Khác với thinh văn, Đức Phật Gautama được gọi là Toàn giác v́ ngài giác ngộ mà không cần người chỉ dạy. Cả Đức Phật và các vị Thinh Văn đều phải thực hành, phải trải nghiệm bằng thiền quán để thực hiện giác ngộ. 4. Chính là Tuệ đưa tới giác ngộ chứ không phải sự tu tập các thiền chứng (Samāpatti) hay Diệt tận Định (Nirodha-samādhi)Giáo pháp nguyên thủy xác nhận: Chỉ có các vị giác ngộ bậc A Na Hàm và A La Hán mới có thể nhâp vào Diệt tận Định. Các vị thánh bậc thấp hơn, hoặc các vị đắc tám tầng thiền chứng, cũng không thể nhập vào Diệt tận định được. Nói cách khác, không thể tu tập diệt tân định để đạt giác ngộ trong Đạo Phật. Chỉ một vị đă có giác ngộ cao, ít nhất là bậc A Na Hàm, mới có thể thực hiện Diệt Tận Định. IV. Mô tả qui tŕnh tâm khi giác ngộTất cả những người đang đi t́m giác ngộ bằng giáo pháp vĩ đại của Đức Phật nên biết rằng: Giác ngộ trong Đạo Phật có thế nhận biết được như thực. Đây không phải là điều mới lạ, mà là điều được mô tả chi tiết trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) trên hơn hai ngàn năm nay. Vi Diệu Pháp xuất hiện vào kỳ kết tập lần thứ ba, được xếp vào chánh tạng, nghĩa là một bộ kinh chứ không phải là chú giải (commentaries). Đây là pháp bảo riêng của Đạo Phật, tương truyền được giảng dạy bởi Đức Phật và ngài Sariputta (Xá Lợi Phất). Vi Diệu Pháp phân tích tất cả các pháp thế gian và phân tích cả lộ tŕnh tâm trong sự giác ngộ bốn thánh quả. Vi Diệu Pháp là một công tŕnh khoa học tâm lư và tâm linh vô cùng vĩ đại và quí giá đối với thế gian. 1. Các giai đoạn và qui tŕnh tâm trong sự giác ngộTheo đúng qui tŕnh Tuệ Quán,
qua mười một tầng tuệ đầu tiên, hành giả sẽ bắt đầu trực nhận Níp Bàn
trong tuệ thứ 13, gọi là Tuệ Chuyển Tộc (Gotrabhù ñāṇa). Ngài Thiền sư
Pa Auk đă mô tả về các giai đoạn trong sự giác ngộ các quả sa môn như
sau: 2. Lộ tŕnh tâm giác ngộChánh pháp của Đạo Phật là giáo pháp của Trí tuệ. Quá tŕnh tu tập, các định, các tuệ và sự chứng ngộ là hoàn toàn có thể hiểu được, mô tả được, bằng lư trí. C̣n ǵ xúc động hơn, khi ta nh́n thấy tận mắt sự giác ngộ bằng một lộ tŕnh tâm với kí hiệu cụ thể như sau: - Đối với người có trí tuệ chậm lụt (Mandapanna) Na – Da – Ma – Pa – U – Nu – Go – Magga – Phala – Phala – Bh – - Hoặc đối với người có trí tuệ nhạy bén (Tikkhapana) Na – Da – Ma – U – Nu – Go – Magga – Phala – Phala – Phala – Bh - Giải thích các kí hiệu : Na = bhavaṅga-calana – hữu phần (hộ kiếp) rúng động, – vibrating life-continuum Da = bhavaṅgupaccheda – hữu phần (hộ kiếp) dứt ḍng – arrested life-continuum Ma = manodvārāvajjana – ư môn hướng tâm -door adverting consciousness Pa = parikamma – chuẩn bị của Đạo (magga) – preparation of the Path (magga) U = upacāra – cận hành của Đạo (magga) – proximity of the Path (magga) Nu = anuloma – thuận thứ cho cái đi trước và cái theo sau – conformity to what preceeds and to what follows Go = gotrabhū – chuyển tộc – change-of-lineage Magga = sotāpattimagga – Đạo Nhập Lưu – the Path of stream-entry Phala = sotāpatti-phala – Quả Nhập Lưu – the Fruition of stream-entry Bh = bhavaṅga – hữu phần (hộ kiếp) – life-continuum Chỉ trừ một số người, mà Pháp Học chưa được nắm vững, th́ có thể không nhận biết được các tâm trong tiến tŕnh giác ngộ (nhập lưu). Một người thuần thục về Pháp học, với minh sát đúng cách, sẽ nhận biết rơ các tâm trong tiến tŕnh giác ngộ, thấy được sát-na của tâm chuyển tộc, ngay lúc chuyển phàm thành thánh. [40] V. Trong khi chờ đợi sự tái phát hiện một đạo lộ tu tập thực sự nguyên thủyCác khái niệm về Tuệ, Trí, thiền định, tuệ quán, đạo
lộ tu tập v.v… trong bài viết này đều căn cứ vào giáo pháp của Đức Phật
được ǵn giữ bởi Đạo Phật Theravada. Tại thời điểm này, Đạo Phật không
c̣n tồn tại các tông phái nào được coi là nguyên thủy hơn Theravada. V́
thế, Theravada với kinh điển Pali phải được coi như là nguyên thủy nhất
so với các tông phái khác. VI. Thông Điệp về sự tỏa sáng của Đạo Phật trong thế kỉ 21Trải qua hàng ngàn năm, sự giác ngộ bị bao phủ
bởi sự thần bí, linh thiêng và bị giải thích lệch lạc bởi ngôn ngữ mơ hồ,
cũng như bởi các lư luận sai lầm. Không hiểu rơ về bản chất và nguyên lư
của sự giác ngộ đưa đến rất nhiều triết lư không đúng và các pháp thực
hành sai. Qua một thời gian đă rất lâu, sự Giác Ngộ của Đạo Phật tưởng
chừng như cứ phải nằm măi trong sự mơ hồ. Bất ngờ trong thời điểm hiện
tại này, có các thiền sư tại Myanmar đă trải nghiệm giác ngộ đúng như
những lộ tŕnh tâm từng được mô tả trong Vi Diệu Pháp. Sự thực về giác
ngộ trong đạo Phật đă được hiển lộ rực rỡ như mặt trời! Thực ra, Vi Diệu
Pháp đă có mô tả những qui tŕnh tâm từ hơn hai ngàn năm trước. Nhưng
bởi sự suy yếu của giáo pháp kéo dài quá lâu, nên thời nay không ai dám
chắc là người tu có thể nh́n thấy các lộ tŕnh tâm hay không, nhất là lộ
tŕnh tâm giác ngộ! Trước đây chỉ hơn chục năm, qui tŕnh tâm giác ngộ
chỉ có tính lư thuyết, “sách vở”. Nay Đạo Phật lại tỏa sáng trở lại, sự
nhận biết như thực Lộ tŕnh tâm giác ngộ chính là: Chú thích: [33] http://en.wikipedia.org/wiki/Bhakti_yoga [34] “T́m hiểu pháp hành thiền tuệ”, phần I, Sự Thật chân lư (sacca). Tác giả Tỳ khưu Hộ Pháp (Dhammarakkhita). [35] Vipassana trong quá khứ và tương lai [36] Kinh chuyển pháp luân- Sayadaw Pa Auk giảng http://vn.360plus.yahoo.com/phamdoan52/article?new=1&mid=2316 [37] http://vn.360plus.yahoo.com/btkhoa/article?mid=518 [38] Biết và Thấy (Knowing and Seeing), đoạn: Biết và thấy niết bàn, tác giả: Pa-Auk Tawya Sayadaw (U Acinna), Tỳ khưu Pháp Thông dịch [39] Câu Hỏi số 20: Những phiền năo nào một người hành thiền phải đoạn trừ để đạt đến quả vị nhập lưu? Người ấy có cần một vị thầy để xác nhận cho ḿnh không, hay họ tự ḿnh biết điều đó, khi họ thực sự đạt đến qua vị nhập lưu? Trả Lời: Theo một số bài Kinh, người ấy phải đoạn trừ thân kiến (sakkāyadiṭṭhi), hoài nghi (vicikiccha) và giới cấm thủ (silabbataparamasa). Song ở một số bài kinh khác lại nói, người ấy phải đoạn trừ ba phiền năo trên và thêm hai phiền năo khác nữa là ganh tỵ (issa) và bỏn xẻn (macchariya). Nếu người ấy rành rẽ Kinh Điển, họ có thể biết rằng ḿnh đă là một bậc thánh rồi. Nhưng nếu anh ta không thông kinh điển, anh ta có thể không biết rằng ḿnh đă là một bậc thánh. Chẳng hạn, Mahānāma (Ma-ha-nam), một người bà con của Đức Phật, không biết được phiền năo nào ông ta đă đoạn trừ vậy.Trích từ “Hỏi&Đáp với Pa Auk Sayadaw” http://vn.360plus.yahoo.com/btkhoa/article?mid=518 Nguồn: Phạm Doăn Blog (http://bsphamdoan.wordpress.com)
|
|||