|
|
Phần hai:
Tuệ phát sinh do tu tập Thiền Định và
Tuệ Quán
I. Thiền Định
1. Tuệ của thiền định
2. Ánh sáng tâm trí
3. Các pháp chân đế: 28 loại sắc pháp và các tổ hợp sắc (rūpa-kalāpa),
Sát-na tâm và các lộ tŕnh của tâm
4. Sự cần thiết của thiền định
5. Đạo Phật sử dụng thiền định như công cụ để thực hiện tuệ quán
6. Giải thích một số các chất vấn: Visuddhimagga, Jhāna, Cận định,
Sát-na định, Ly dục ly ác pháp, định thế gian (hiệp thế) và xuất thế
gian (thánh định).
7. Mục đích của thiền định để thực hiện cái gọi là “như thực rơ biết”
8. Đức Phật đă tu tập thiền định và ca ngợi sự tu tập thiền định
II. Tuệ Quán
1. Phương pháp Tuệ Quán (Vipassanā)
2. Nguyên lư của Tuệ quán: Thấy như thực (yathābhūtaṁ pajānāti, seeing
as it is)
3. Thế nào là “hành thâm bát nhă”.
4. Mối liên hệ giữa Tuệ Quán và Thiền Định
5. Bốn đạo lộ
6. Việc kiểm chứng các trải nghiệm trong khi tu tập
7. Định và Tuệ trong phương pháp luận khoa học: Quy nạp và Diễn dịch
*****
I. Thiền Định
Các tôn giáo ở Ấn Độ đă tu tập và tích
lũy một kho tàng kiến thức to thật lớn về các loại Yoga và thiền định.
Bản thân Đức Phật cũng đă tu tập nhiều loại thiền định Bà La Môn trong
sáu năm sống giữa các đạo sĩ vùng Bắc Ấn. Thiền Định là nền tảng cho mọi
khuynh hướng phát triển tâm linh từ xưa cho đến nay.
1. Tuệ của thiền định
Trái với một số quan điểm cho rằng thiền
định không phát sinh ra Tuệ, sự thực là Thiền Định có mang lại những tuệ
nhất định, mà trong Đạo Phật gọi là Jhāna-ñāṇa, tức tuệ của Jhāna (tuệ
của thiền định). Khi nhập vào an-chỉ định (appana samadhi), chủ thể nhận
thức và đối tượng được nhân thức trở thành một [17]. Có người đă nhân ra
ngay trong chánh định, một tuệ về trạng thái bất nhị. Chính cái cảm giác
“một là tất cả, tất cả là một”, khiến các đạo sĩ đắc định thỏa măn, tự
tin rao giảng về một sự “giải thoát vĩ đại”. Thực ra, “Một là tất cả,
Tất cả là một” chỉ có nghĩa là “Tiểu ngă là Đại ngă, Đại ngă là Tiểu ngă”
đó là một giải thoát của cái tôi nhỏ bé đến cái tôi rộng lớn hơn trong
các tầng trời mà chưa phải là giải thoát khỏi sáu nẻo luân hồi, theo cái
nh́n của Đạo Phật. Mahathera Henepola Gunaratana trong cuốn “Con đường
Thiền Chỉ và Thiền Quán” (bản dịch của Ỳ Khưu Pháp Thông) đă nhận định:
“Trái với các bậc Alahán Tuệ giải thoát, những vị Alahán Câu phần giải
thoát hưởng được hai loại giải thoát. Nhờ thành thục các thiền chứng vô
sắc họ được giải thoát khỏi sắc thân (rūpakāya) hay thân vật lư, nghĩa
là các vị có thể an trú trong các thiền tương ứng với các cảnh giới vô
sắc ngay trong kiếp sống này. Nhờ chứng Alahán quả, các vị được giải
thoát khỏi thân tâm lư hay danh thân (nāmakāya), tức ngay trong hiện tại
thoát khỏi mọi phiền năo và bảo đảm sự giải thoát tối hậu khỏi các sanh
hữu tương lai. Các vị Alahán tuệ giải thoát chỉ có được loại giải thoát
thứ hai trong hai loại giải thoát này mà thôi.”
Hơn thế nữa, thiền định khi phát triển đúng cách có khả năng đem lại năm
tuệ đặc biệt gọi là “thắng trí” tức thần thông. Trong lịch sử, Đức Phật
đă không hài ḷng với những tuệ và thần thông phát sinh từ các tầng
thiền định nên Ngài đă phải thực hiện thêm một phương pháp riêng gọi là
Tuệ Quán (Vipassanā). Nói như vậy không có nghĩa là Đức Phật đă loại trừ
thiền định, vốn là công phu trong sáu năm tu tập của ngài, mà chỉ có
nghĩa là ngài đă cộng thêm vào công phu thiền định, một phương pháp tu
tập gọi là tuệ quán, để đạt đến giải thoát tối thượng.
2. Ánh sáng tâm trí
Bản chất của thiền định (Jhāna) trong Phật
Giáo Nguyên Thủy là sự vắng lặng và tập trung. Nhưng bên cạnh đó, một
công năng to lớn của thiền định từ lâu không được bàn tới, là tạo ra
“ánh sáng tâm trí”. Các đạo sĩ Ấn Độ rất quen thuộc với các loại thiền
định và ánh sáng tâm trí, ví dụ hiện nay giáo phái San Mat vẫn đang tu
tập ánh sáng này. Nếu Đạo Phật c̣n sống trên đất Ấn có lẽ Phật tử sẽ
không ngạc nhiên ǵ nhiều với cái gọi là “ánh sáng tâm trí”. Rất tiếc
Đạo Phật lại không c̣n được tồn tại trên chính vùng đất đă sản sinh ra
nó. Khi đi ra ngoài Ấn Độ, sự thực hành thiền định trong Đạo Phật ít đi,
lâu ngày “ánh sáng tâm trí” trở nên một điều xa lạ. Có thể hiểu “ánh
sáng’ ở đây theo cả hai nghĩa, nghĩa bóng hoặc nghĩa đen. Ajhan Brahm đă
cố gắng mô tả loại ánh sáng này trong cuốn sách nhỏ “The Jhāna” [18].
Định tâm mạnh mẽ sẽ tạo ra ánh sáng mạnh mẽ, và chính nhờ ánh sáng ấy mà
hành giả có thể đi sâu hay thể nhập vào sự thực chân đế (paramattha
sacca). Ánh sáng tâm trí đă được Đức Phật giải thích trong Tăng Chi Kinh,
chương nói về Hào quang (ābhāvagga) như sau:
- Này các Tỳ khưu, có bốn lại hào quang. Thế nào là bốn? Hào quang
của mặt trăng, hào quang của mặt trời, hào quang của lửa và hào quang
của trí tuệ (paññābhā).
- Này các Tỳ khưu, có bốn lại ánh sáng rực rỡ. Thế nào là bốn? Ánh sáng
rực rỡ của mặt trăng, ánh sáng rực rỡ của mặt trời, ánh sáng rực rỡ của
lửa, ánh sáng rực rỡ của trí tuệ (paññā pabhā).
- Này các Tỳ khưu, có bốn loại ánh sáng. Thế nào là bốn? Ánh sáng của
mặt trăng, ánh sáng của mặt trời, ánh sáng của lửa, ánh sáng của trí tuệ
(paññā-āloko).
- Này các Tỳ khưu, có bốn loại sáng chói. Thế nào là bốn? Sự sáng chói
của mặt trời, sự sáng chói của mặt trăng, sự sáng chói của lửa, sự sáng
chói của trí tuệ (paññā-obhāso).
- Này các Tỳ khưu, có bốn loại rực rỡ. Thế nào là bốn? Sự rực rỡ của mặt
trăng, sự rực rỡ của mặt trời, sự rực rỡ của lửa, sự rực rỡ của trí tuệ
(paññā-pajjoto) [AN. 11.139]
3. Các pháp chân đế
Ánh sáng
của Định của Định rất mạnh mẽ, đặc biệt là nó có khả năng “nhận biết rơ
ràng” hoặc “nhận biết như thực” những thực thể vi tế gọi là “các pháp
chân đế” (paramattha dhamma). Đây là sự thực nội hàm trong mọi hiện hữu
mà tri giác b́nh thường không nắm bắt được. Bằng thiền quán kết hợp với
năng lực của cận định khi vừa xuất ra từ chánh định, vị thiền sư nhận
biết, hay đôi khi c̣n gọi là “nh́n thấy”, cơ thể vật chất (sắc, rūpa) và
tâm (danh, citta) của chính ḿnh như sau:
· 28 loại sắc pháp và các tổ hợp sắc (rūpa-kalāpa)
Ánh sáng của Định của Định rất mạnh mẽ,
đặc biệt là nó có khả năng “nhận biết rơ ràng” hoặc “nhận biết như thực”
những thực thể vi tế gọi là “các pháp chân đế” (paramattha dhamma). Đây
là sự thực nội hàm trong mọi hiện hữu mà tri giác b́nh thường không nắm
bắt được. Bằng năng lực đặc biệt của tâm khi vừa xuất ra từ an-chỉ định
(appanā-samādhi) hoặc khi vừa xuất ra khỏi cận định (upacāra samādhi),
vị thiền sư nhận biết, hay đôi khi c̣n gọi là “nh́n thấy”, cơ thể vật
chất (sắc, rūpa) và tâm (danh, citta) của chính ḿnh như sau:
· 28 loại sắc pháp và các tổ hợp sắc (rūpa-kalāpa)
Thế giới vật chất thực sự không có tính khối (thể tích), mà được cấu tạo
bởi các thành phần cơ bản gọi là “sắc pháp”. Có 28 loại sắc pháp căn bản.
Các sắc pháp lại tập hợp chung với nhau thành các tổ hợp Kalapa (rūpa-kalāpa).
Có ba loại tổ hợp rūpa-kalāpa, một loại có 8 thành phần cơ bản gọi là
“tổ hợp tám”, một loại có 9 thành phần cơ bản gọi là “tổ hợp chín”, và
một loại có 10 thành phần cơ bản gọi là “tổ hợp mười”:
1 – Các tổ hợp tám (sắc) – aṭṭhaka (tám sắc căn bản)
2 – Các tổ hợp chín (sắc) – navaka (tám sắc căn bản cộng với sắc thứ
chín)
3 – Các tổ hợp mười (sắc) – dasaka (chín sắc cộng với sắc thứ mười)
Nói chung sắc thân của chúng ta bao gồm ba loại tổng hợp sắc này trộn
lẫn với nhau theo những cách khác nhau vậy thôi [19].

Tổ hợp tám sắc: không có sự sống
Tổ hợp chín sắc: có sự sống (v́ có sắc mạng căn)
Tổ hợp mười sắc: có sự sống và có rất nhiều loại v́ yếu tố thứ10 gồm
nhiều loại khác nhau.
Nhận biết vật chất, ở mức độ các sắc pháp và tổ hợp Kalāpa, gọi là… thấy
“như thực”. Cách thấy biết và phân tích vật chất ra thành nhiều thành
phần cơ bản trong Đạo Phật, rất giống như cách khoa học phân tích vật
chất gồm các nguyên tử, nguyên tố và hợp chất khác nhau. Các thiền sư
nh́n thấy các tổ hợp kalāpa và các sát na tâm sinh ra rồi diệt đi rất
nhanh, nên suy ra các pháp chân đế được nh́n thấy có thể là các thành
phần c̣n nhỏ hơn nguyên tử, tức là ở cấp độ hạt. Mới đây khoa học cũng
t́m thấy các hạt Higgs là các hạt vừa sinh ra liền biến mất! Trong tương
lai, cấu tạo vật chất theo mô h́nh kalāpa cũng có khả năng gợi ư một
hướng phát triển mới cho khoa học..
· Sát-na tâm và các lộ tŕnh của tâm
Năng lực của thiền quán khi phối hợp với
chánh định cũng có thể nhận biết và phân biệt từng sát-na tâm cụ thể
cũng như từng lộ tŕnh của tâm (cittavīthi).
Abhidhamma mô tả chi tiết 121 tâm và chi tiết các giai đoạn của các lộ
tŕnh tâm:
- Tri giác qua năm giác quan (năm môn) đă được mô tả đến từng sát-na tâm,
qua một tiến tŕnh gọi là ngũ môn lộ tŕnh tâm. Theo sơ đồ bên dưới, Tri
giác qua thị giác sẽ là một loạt tâm xuất hiện theo đúng một qui tŕnh
không đổi là 17 tâm liên tục kế tiếp nhau gọi là một lộ tŕnh tâm (hay
qui tŕnh tâm). Đối với thị giác th́ đây gọi là Nhăn môn lộ tŕnh tâm.

- Ư thức (có
nhiều loại) ngang qua ư môn cũng có thể được các thiền sư quán sát “như
thực” trong từng sát na tâm, qua những tiến tŕnh gọi là Ư môn lộ tŕnh
tâm.

4. Sự cần thiết của thiền định:
Bằng thiền quán, với năng lực của tâm khi
vừa xuất ra khỏi an-chỉ định (appanā-samādhi) hay cận định (upacāra
samādhi), thiền sư có thể biết và thấy các thành phần vi tế của tâm và
vật, tức các pháp gọi là chân đế. Sự thấy rơ các pháp chân đế là điều
cần thiết để thực hiện thiền quán (Vipassanā) một cách đúng đắn. Thế nào
là đúng đắn? Trong suốt các bộ kinh, Đức Phật đă nhắc lại nhiều lần phải
nhận biết, phải nh́n giáo pháp của ngài một cách như thật rơ biết với
nghĩa “đen”(literal) của nó:
- Này các Tỷ-kheo,
hăy tu tập định.
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có định,
như thật rơ biết
(pajānāti). Và như thật rơ biết ǵ?
Như thật rơ biết: "Đây là Khổ". Như thật
rơ biết: "Đây là Khổ tập". Như thật rơ biết: "Đây là Khổ diệt". Như thật
rơ biết: "Đây là Con Đường đưa đến Khổ diệt".
Đă qua một thời gian rất lâu, ư nghĩa “như
thật rơ biết” của Đức Phật đă không c̣n thật rơ biết nữa. Đa số hiểu lầm
“như thật rơ biết” là sự hiểu biết bằng các khái niệm của trí óc. Ngay
đây, chúng ta thấy rằng phương pháp luận phân tích trong Đạo Phật, có
phần tương đồng với phương pháp luận phân tích của khoa học. Mọi vật,
mọi hiện tượng trong thế giới, đều được khoa học cắt chẻ chi li. Dĩ
nhiên cũng phối hợp với sự tổng hợp. Nếu vật chất không được biết tới
cấp độ nguyên tử và hạt cơ bản th́ làm sao có điện học và điện tử học.
Làm sao ta có nền văn minh đồ sộ như ngày nay! Thứ nữa, những điều vừa
tŕnh bày ở trên, cho thấy thiền định là năng lực cần thiết phải có để
thực hiện các tuệ minh sát, ngay cả đối với tuệ đầu tiên đó là Tuệ phân
biệt Danh và Sắc. Không có thiền định th́ không có khả năng nhận biết
các sự thực vi tế, các pháp chân đế, do đó không thể thực hiện thành
công thiền quán về các tuệ giải thoát! Sự cần thiết của thiền định, chỉ
mới vừa được nêu ra trong thời gian gần đây. Có một số thiền sư khi thực
hiện thiền quán phối hợp với chánh định, đă thành công đúng như mô tả
trong kinh điển và chú giải. Sự phục hồi giáo pháp nguyên thủy gồm đầy
đủ tam học Giới-Định- Tuệ, đang dựa vào kết luận rất quan trọng này.
5. Đạo Phật sử dụng thiền định như công cụ để thực hiện
tuệ quán
Có một điều rất thú vị, nếu ta lại so sánh
phương pháp “dùng Định để đạt Tuệ” với việc khoa học dùng các công cụ để
đạt hiểu biết về thế giới khách quan bên ngoài. V́ sự giới hạn của các
giác quan, con người không thể trải nghiệm “như thực” toàn bộ thế giới.
Do đó để t́m hiểu thế giới chung quanh cho sự phát triển khoa học, con
người cần có các công cụ hổ trợ. Ví dụ, thoạt đầu là kính hiển vi thô sơ
để nh́n các sinh vật nhỏ, kính thiên văn để nh́n các thiên thể xa v.v…khoa
học bây giờ cần đến những công cụ tối tân hơn nữa như kính hiển vi điện
tử, các vệ tinh để thám sát, các kính viễn vọng to lớn như Hubble được
phóng trên quĩ đạo. Mọi ngành khoa học đều có những công cụ riêng, để
thực hiện nghiên cứu khoa học của riêng nó. Tương tự như vậy, v́ trí óc
người tu b́nh thường không thể thám sát và nh́n thấy cấu tạo vi tế của
vật chất (Sắc) cũng như sự xuất hiện vi tế của tâm (Danh) nên phải cần
có một năng lực đặc biệt để quán sát được các pháp “như thực”, đó chính
là thiền định.
Đối tượng của Tuệ Quán là các pháp “chân đế” (paramattha), tức là các
vật chất rất vi tế, các hiện tượng sinh ra và diệt đi rất nhanh. Do đó
Tuệ Quán rất cần năng lực “nh́n xuyên thấu” với “tốc độ cao” của thiền
định để làm công cụ. Năng lực của Tuệ quán, phối hợp với tâm vừa xuất ra
khỏi an-chỉ định, có thể nh́n thấy rơ Danh (các tâm) và Sắc (vật chất) ở
cấp độ vi tế. Có nghĩa là người tu định có thể tri giác từng tâm và các
qui tŕnh tâm, ngay cả có thể thấy vật chất ở cấp độ các tổ hợp Kalapa (rūpa
kalāpa) tức thành phần cơ bản của vật chất (theo cái nh́n của Định).
Năng lực của định có thể quan sát được tính vô thường của ngũ uẩn, những
điều mà trí óc b́nh thường (mind) không thể trải nghiệm trọn vẹn được.
Đây là chức năng thật sự của thiền định có trong giáo pháp nguyên thủy.
Tuy nhiên, sau một thời gian dài bỏ qua pháp tu thiền định, các trường
phái Theravāda trở nên xa lạ với sức mạnh phi thường này của thiền định.
Vai tṛ của thiền định trong tu tập của Đạo Phật mới chỉ được phục hồi
và phổ biến trong những năm gần đây!
Có rất nhiều tu sĩ luôn đặt câu hỏi: Làm sao trong t́nh trạng tâm vắng
lặng cố định mà lại quan sát được các hiện tượng tâm và quá tŕnh tâm,
những cái vốn luôn vận hành? Đây chỉ là một vấn đề kĩ thuật, nhưng kĩ
thuật này đă thất lạc khi thiền định đă bị quên lăng trong một thời gian
quá lâu! Tại thời điểm này, khi Đạo Phật nguyên thủy đột nhiên có dấu
hiệu hồi sinh, một số không ít các thiền sư có chứng đắc thiền định đă
chứng minh được rằng:
- Khi vừa xuất ra từ an-chỉ định (appanā-samādhi) hoặc cận định (upacāra
samādhi), tâm có trạng thái đặc biệt mạnh mẽ. Với tâm này, thiền sư có
thể quán sát các hiện tượng vi tế của thân và tâm ở mức độ chân đế (paramattha).
Thấy các pháp chân đế như thực là điều mà từ lâu rồi ít có người tin.
Bằng an-chỉ định của các bậc thiền, người tu trong đời nay đă có thể
thực hiện được điều rất khó tin đó. Tùy theo xuất ra từ một bậc thiền
cao hay thấp, mà sự quan sát trở nên mạnh mẽ, rơ ràng nhiều hay ít.
Trước đây không ai tin rằng có thể kết hợp Cận định với thiền quán mà
thường lư luận rằng chỉ có Sát na định (khaṇika samādhi) [20] mới có thể
kết hợp với thiền quán. Thực hành thiền quán với năng lực của sát na
định dần dần trở thành niềm tin truyền thống của hầu hết các trường phái
Theravāda.
Trong cuộc sống phát triển như hiện nay rất khó tu tập thành công các
bậc định (theo các chú giải th́ ngay từ xưa các thiền định cũng rất khó
thực hiện). Đối với một người tu mà không thể đạt được an-chỉ định (appanā-samādhi)
của một bậc thiền nào th́ Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) đề nghị tuệ
quán phải được kết hợp với một mức tối thiểu là cận định (upacāra
samādhi) của một bậc định thấp nhất (sơ thiền). Hoặc nếu người tu không
có khả năng tu tập bắt đầu với thiền định, th́ người đó có thể chọn cách
bắt đầu tu tập bằng thiền tứ đại (Catudhātu Vavatthana) [21] v́ năng lực
của thiền tứ đại cũng tương đương với mức cận định.
Sự phục hồi việc tu tập thiền định trong Đạo Phật, tạo ra một loạt các
phản ứng (giống như là một phản ứng tự vệ) từ các các quan điểm cũ, tức
quan điểm không ủng hộ thiền định. V́ thế rất có nhiều hoài nghi và chất
vấn được đưa ra:
6.
Giải thích một số các chất vấn
Visuddhimagga
Cuốn Thanh Tịnh đạo (Visuddhimagga)
xuất hiện và được Theravada bảo tồn cách đây 1500 năm. Đây là một trong
những cuốn chú giải tin cậy bên cạnh cuốn Giải Thoát Đạo (Vimuttimagga).
Thanh Tịnh Đạo mô tả rất rơ ràng về bản chất cũng như cách tu tập hệ
thống tám định Jhanas: Bốn định hữu sắc (rupa jhanas) và bốn định vô sắc
(arupa jhana). Bên cạnh đó, mô tả đạo lộ tu chứng qua bảy giai đoạn
thanh tịnh với sự nhấn mạnh vai tṛ thiền định và năng lực phi thường
của Jhana khi kết hợp với thiền quán. Thanh Tịnh Đạo Luận dĩ nhiên không
phải là quan điểm cá nhân của Ngài Buddhaghosa như những lời công kích.
Tất cả kiến giải của Thanh Tịnh Đạo luận được rút ra từ các kinh Nikaya,
Phân Tích Đạo (Tiểu Bộ) và Abhidhamma. Thời gian mới đây, khi có một số
vị sư thực hành thành công đạo lộ mà Thanh Tịnh Đạo đă mô tả, th́ có một
số nghi vấn được nêu lên:
Các tu sĩ đó có thực sự đắc định, đắc tuệ hay không? Làm sao kiểm chứng?
(V́ từ rất lâu, không thấy có ai thành công trên đạo lộ này!). Theo giới
luật, các tu sĩ sẽ không công bố các định chứng hay sự giác ngộ của ḿnh
cho những người khác, ngoại trừ với các bậc tôn túc có mưc độ tu tập cao
hơn. Nếu tin vào Giới luật, nhất là giới không vọng ngữ của các tu sĩ,
th́ có lẽ không cần đến câu trả lời.
Jhānas
“Jhāyati” là một động từ, có hai nghĩa: một là thiêu đốt phiền năo, hai
là gắn tâm sâu vào đối tượng thiền để thiêu đốt phiền năo. Danh từ của
jhayati là jhāna. Trong Kinh Pali, từ Jhana được phổ biến trong nhiều
bài kinh. Ví dụ bài kinh Mahasaccaka, Trung Bộ, số 36:
- Tassa mayhaṃ, aggivessana, etadahosi – ‘abhijānāmi kho panāhaṃ pitu
sakkassa kammante sītāya jambucchāyāya nisinno vivicceva kāmehi vivicca
akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ
jhānaṃ upasampajja viharitā.
- Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: “Ta biết, trong khi phụ thân
Ta, thuộc gịng Sakka (Thích-ca) đang cày và Ta đang ngồi dưới bóng mát
cây diêm-phù-đề (jambu), Ta ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú
Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ”. (Thích
Minh Châu dịch sang tiếng Việt)
V́ trong kinh (suttas) không có phần giảng dạy chi tiết về cách thực
hiện jhana, cho nên Ngài Buddhaghosa đă phải chú giải về cách thực hiện
Jhana trong cuốn chú giải Thanh Tịnh Đạo. Từ đây nảy sinh bất đồng, với
ư kiến cho rằng jhana giảng theo ngài Buddhaghosa là không chắc đúng với
cách dạy của Đức Phật, mà hiện nay c̣n thất lạc! Thực vậy nếu cách thực
hiện Jhana theo Đức Phật c̣n tồn tại th́ sẽ không nảy sinh vấn đề ǵ cả.
Tại thời điểm này người tu chỉ có hai lựa chọn: Một là theo sự hướng dẫn
của ngài Buddhaghosa. Hai là phải tự đi t́m lại cách thực hiện Jhana
được cho là “nguyên thủy” hơn.
Ta thử nh́n lại Jhāna theo Thanh Tịnh Đạo qua hai phần: h́nh thức tu tập
và nội dung trải nghiệm.
- H́nh thức tu tập: Định jhāna được phát triển từ niệm hơi thở đúng theo
kinh Anapanasati, thêm vào sự tập trung tại mũi (touching point) đúng
như có ghi chép trong kinh Tiểu Bộ (Patisambhidamagga).
- Nội dung trải nghiệm: ánh sáng nimitta (dùng làm chuẩn mực của sự nhập
định) và ánh sáng trí tuệ (dùng để thực hiện Vipassana). Ánh sáng trí
tuệ th́ có mô tả rơ trong Tăng Chi Bộ kinh, nhưng Nimitta chỉ được mô tả
trong Luận.
Jhana theo Thanh Tịnh Đạo bị công kích là tạo ra sự tưởng tượng (Paccavekkhā,
imagination) khiến người tu nh́n thấy nimitta, các tổ hợp Kalapa, các
sát na tâm và ngay cả các tuệ giải thoát!
Trả lời: các tu sĩ khi thực hiện Jhana (theo Thanh Tịnh Đạo) luôn biết
rằng nimitta là do nghiệp cá nhân tác động vào sự nhận biết. V́ thế
nimitta luôn có những h́nh tướng khác nhau tùy theo từng cá nhân riêng
biệt. Khi thực hiện Vipassana, ngay cả đến giai đoạn thấy hào quang tràn
ngập thân thể, trí tuệ minh mẫn cùng với niệm, tịnh, hỉ, lạc, xả v.v…
th́ các tu sĩ cũng được cảnh giác để nhận biết rằng đó chính là giai
đoạn Vipassana bị ô nhiễm (upakkilesa). Pháp học đầy đủ với sự cảnh giác
trong tu tập luôn là đối pháp để tránh mọi sai lệch trong thực hành.
Thái độ phủ định “sạch bóc” mọi trải nghiệm, mọi thiền chứng như vừa nói
ở trên cũng chính là thái độ phủ định sạch bóc một số kinh và các bộ
luận như bô Phân Tích Đạo, bộ Vi Diệu Pháp…! Vậy Đạo Phật c̣n lại những
ǵ? Những trường phái chống đối Thanh Tịnh Đạo chỉ có thể chứng minh
tính đúng đắn của ḿnh nếu thực sự đưa ra được một cách tu tập Jhana và
Vipassana khác để thay thế. Hiện giờ th́ vẫn chưa thấy có một đạo lộ tu
tập nào khác được hoàn chỉnh để dẫn đến các Thánh quả một cách khẳng
định!
Nguồn gốc của Jhana
Ngài trưởng lăo U. Acinna, trường thiền Pa Auk, đă phát biểu về nguồn
gốc Bà la môn của các định jhana hữu sắc và vô sắc (trong Thanh Tịnh Đạo)
như sau:
“…Absorption concentration (appana samadhi) is also called Jhana. And
there are eight types of Jhana: the four fine material Jhanas (rupa-jhana),
and the four immaterial jhanas (arupa-jhanas). They also called the
eight attainements (attasamapatti). The eight attainments are not unique
to a Buddha Dispensation. Outside the Dispensation of a Buddha, they are
taught by ascetics and wanderers, by Bodhisattas bound for full
Enlightenment, and by Wheel turning kings.
(Quoted from: The workings of kamma, by Pa Auk Tawya sayadaw, pp. 94)
Điều xác nhận này, từ một trưởng lăo tu tập theo Thanh Tịnh Đạo, thể
hiện quan điểm coi Jhana (dù có nguồn gốc từ đâu) cũng vẫn có thể dùng
làm phương tiện để thực hiện thành công pháp thiền quán của Đức Phật.
Rất nhiều quan điểm, rất nhiều tranh căi về Định Jhana. Sau đây là thêm
một ví dụ về Định Jhana dưới cây táo hồng:
Trong kinh Trung Bộ số 36, Đại kinh Saccaka, Đức Phật nhớ lại hồi c̣n bé
đă trải nghiệm jhana dưới cây táo hồng (jambu) và Đức Phật quyết định
thực hiện lại loại thiền định này dưới cội Bồ Đề. Ngài Ajahn Brahm đă
cho rằng loại định này gọi là Jhana. Jhana có từ thời Đức Phât Ca Diếp
trong quá khứ và do Đức Phật Gautama tái phát hiện sau một thời gian dài
bị biến mất tại Ấn Độ [22]. Cũng với đoạn kinh như vậy, Ngài Thông Lạc
tại Việt Nam lại cho rằng “Jhana dưới cây táo hồng” là định của Bà la
Môn và Đức Phật đă thực hiện một loại định riêng khác dưới cội Bồ Đề![23]
. Tuy nhiên hầu hết mọi người, căn cứ trên văn mạch rơ ràng của đoạn
kinh, đều hiểu rằng “Jhana dưới cây táo hồng” là loại định riêng của Đức
Phật không phải của Bà La Môn. Hiện nay, dù vẫn có sự phân biệt về Jhana
“theo Kinh” hay Jhana “theo Luận”, đa số các nguồn Phật học Tây phương
vẫn chỉ dùng một chữ Jhana để nói về thiền định của Phật Giáo.
Nimitta
Đối với nimitta-samadhi (thiền định có đi kèm dấu hiệu), nimitta là
phương tiện để nhập thiền. Nimitta có nguy hiểm ǵ cho người tu tập
không? Hoàn toàn không! Ngược lại chỉ có lợi ích, đó là thâm nhập vào
an-chỉ định trở nên dễ dàng hơn. Sự thực về nimitta-samadhi chỉ có vậy,
c̣n chấp nhận hay không dĩ nhiên là tùy vào sự lựa chon của người tu tập.
Bên cạnh đó c̣n có các chất vấn liên quan như: Tại sao trong kinh (suttas)
chỉ nói đến hệ thống bốn thiền mà Vi Diệu Pháp, Thanh Tịnh Đạo lại liệt
kê đến năm thiền? Tại sao trong sơ- thiền, có nhiều bài kinh không nhắc
đến “Định nhất tâm” (ekaggata) mà Vi Diệu Pháp hay Thanh Tịnh Tịnh Đạo
đều có liệt kê như một trong năm thiền chi? [24] . Theo Thanh Tịnh Đạo,
khi thiền lấy hơi thở làm đề mục, lúc đạt cận định, có sự xuất hiện của
ánh sáng Nimitta [25]. Nimitta nghĩa là dấu hiệu (sign, “tướng”) của hơi
thở. Nimitta của đề mục hơi thở có thể có nhiều h́nh tướng khác nhau.
Các loại đề mục thiền khác nhau có thể cho ra các nimitta (signs) khác
nhau. Thực tế là khoảng ba mươi năm trở lại đây, có những thiền sư thực
hành niệm hơi thở với điểm xúc chạm ở mũi, th́ trải nghiệm sự xuất hiện
Nimitta giống như Thanh Tịnh Đạo đă mô tả ở trên. Có nhiều cách giải
thích về Nimitta, theo một số các thiền sư, nimitta chính là hơi thở
được cảm nhận ở mức độ các tổ hợp kalapa. Khi tâm thanh tịnh và tập
trung các tổ hợp này phát sáng. Nimitta và ánh sáng trí tuệ (paññā-āloko)
là hai thực thể khác nhau. Có người có Nimitta trước rồi mới có ánh sáng
trí tuệ, có người th́ ngược lại. Nhờ có Nimitta làm đối tượng, các thiền
sư mới có thể thâm nhập (absorbed) vào mức an-chỉ định (appanā-samādhi).
Nếu như thiền định được dùng làm phương tiện thực hiện tuệ quán th́
Nimitta cũng chỉ được dùng làm phương tiện để thực hiện an-chỉ định (appanā-samādhi).
Tâm khi vào mức an chỉ định của tứ thiền có ánh sáng trí tuệ rất mạnh.
Các vị thày Theravada người Tây phương vốn thường không chấp nhận các
chú giải (Atthakatha, commentaries), do đó phần nhiều cũng không chấp
nhận Nimitta, không chấp nhận ánh sáng trí tuệ quá sáng, quá rực rỡ theo
như cách mô tả của Thanh Tịnh Đạo. Bhikkhu Sona nói rằng các tu sĩ nên
cẩn thận, tránh để các chú giải hướng dẫn sai [26]. Bởi v́ nếu căn cứ
vào Phân Tích Đạo (đoạn giảng về niệm hơi thở vào, hơi thở ra) và sự
trải nghiệm của chính ông th́ tâm thiền chỉ có thể sáng tựa “trăng thoát
mây che”.[27].
Giáo pháp nguyên thủy đă dùng sánh sáng tâm trí để nhận biết các pháp
chân đế, rồi từ đó đạt được các tuệ cần thiết cho giác ngộ cuối cùng.
Giáo phái bí mật San Mat (thuộc đạo Sikh) cũng thiền để có ánh sáng, khi
có ánh sáng th́ cho là giác ngộ, ngoài ra không có lư luận giải thích ǵ
cả! San Mat [28], khi truyền vào Việt Nam gọi là “pháp môn quán âm”. San
Mat gọi hiện tượng thấy ánh sáng trong thiền định là thành Phật (v́ hầu
hết tín đồ San Mat tại Việt Nam là Phật tử). Cùng là ánh sáng xuất hiện
trong thiền định nhưng sự hiểu biết đúng về bản chất loại ánh sáng đó
th́ rất khác nhau. Sự phục hồi của thiền định chắc chắn sẽ điều chỉnh
một số hiểu lầm đáng tiếc về vai tṛ của thiền định trong thời gian vừa
qua:
Cận-định
V́ bị bỏ quên quá lâu, không thực sự có trải nghiệm, nên sự hiểu biết về
thiền định trong Phật giáo hiện nay chưa được phổ biến. Chỉ có một số ít
các trường phái tu tập thiền định mới hiểu rơ cận định thực sự như thế
nào! Ai cũng biết cận định (upacāra samādhi) là một trạng thái tâm ngay
ngưỡng cửa, trước khi bước vào an-chỉ định (appanā-samādhi). Nhưng vần
đề là nếu một người chưa từng nhập vào chánh định, chưa từng đi ngang
qua nó, th́ rơ ràng khó mà biết được cái ngưỡng cửa đó ra làm sao! Từ sự
hiểu lầm đó, nên đă có sự ngạc nhiên và nghi ngờ đối với khả năng của
cận định khi phối hợp với thiền quán.
Sát na định vs cận định
- An-chỉ định (appanā-samādhi) là lúc tâm “ḥa nhập” (absorption) vào
đối tượng, không phân biệt được chủ thể và đối tượng. Cận định (upacāra
samādhi) là trạng thái tâm trước khi đi vào mức an chỉ, tức khi chủ thể
c̣n phân biệt được với đối tượng. Khi vừa xuất ra khỏi an chỉ định hoặc
cận định, tâm đặc biệt mạnh mẽ, có thể quan sát được các đối tượng của
thiền quán ở mức chân đế và trong sự sinh diệt nhanh chóng của chúng . Ở
trạng thái định và cận định có rất nhiều ánh sáng trí tuệ (paññā-āloko)
như mô tả của Kinh Tăng Chi [AN. 11.139]. Nhờ có ánh sáng trí tuệ, thiền
định có khả năng phối hợp với tuệ quán (Vipassanā) để nh́n thấy các pháp
vi tế thuộc chân đế như thành phần cấu tạo của tâm và vật chất (danh và
sắc).
- Sát-na định (khaṇika samādhi) được giảng dạy phổ biến trong đa số các
trường phái Theravada như là khả năng định trong vài sát na, dùng để di
chuyển nhanh chóng khi quan sát các đối tượng. Tuy nhiên, kèm theo cách
giải thích về sát-na định này là một ngụ ư không cần đến sự tu tập thiền
định [20]. Thực ra sát na định của một người có tu tập định th́ hoàn
toàn khác với sát na định của một người không có tu tập định. Khác biệt
ở chỗ nào? Sát na định của một người có định, có cường độ mạnh hơn, và
năng lực nhận biết tinh vi hơn, nhờ ánh sáng tâm trí. Đối với những
người có tu tập định th́ Sát Na Định được hiểu như sau:
“A meditator uses either access concentration or jhāna concentration as
the foundation of vipassanā and undertakes vipassanā defining
mentality-materiality as impermanent (anicca), painful (dukkha) and
not-self (anatta). The concentration that is associated with insight
knowledge (vipassanā) in this way is called “khanikasamādhi”. [29]
Một thiền giả dùng hoặc cận định hoặc định bậc thiền (jhāna) như là nền
tảng của thiền Vipassanā và thọ tŕ thiền Vipassanā xác định danh và sắc
là vô thường (aṇicca), khổ (dukkha) và vô ngă (anatta). Định kết hợp với
minh sát tuệ (vipassanāñāṇa) theo cách này được gọi là “khanikasamādhi”
(sát-na định).
Một số các tên gọi của Định
- An Chỉ Định (appana samadhi) là mức định hoàn hảo dùng để so sánh với
cận định (upacara samadhi) là mức định chưa hoàn hảo.
- Chánh Định (samma samadhi) là thiền định do Đức Phật dạy, khởi sinh do
sự ly dục ly ác pháp. Chánh định khác với Tà Định, cái được ám chỉ Định
không phải do Đức Phật dạy.
- Định xuất thế gian (lokuttara samadhi, supra mundiane samadhi, Thánh
định) dùng để đối lập với Định thế gian (lokiya samadhi, mundiane
samadhi, định của phàm phu)
- Thánh Định dùng để ám chỉ Định của các bậc thánh trong Đạo Phật. Thánh
Định chính là Định xuất thế gian. Một người đắc Định nhưng chưa có Tuệ
giải thoát th́ cái Định này vẫn c̣n là Định phàm phu. Một vị thánh nhập
vào Định th́ Định đó là Thánh Định hay Định xuất thế gian. Vần đề này
tham khảo thêm tại đây:
http://www.palikanon.com/english/the_jhanas/jhanas05.htm#top
- Nimitta samadhi (Định có đi kèm dấu hiệu): Các định Jhana
- Animitta samadhi (Định không có dấu hiệu), sunnata samadhi, apanihita
samadhi:
Các Định có được từ tuệ minh sát, tuệ Đạo, tuệ Quả (theo Mahathera Ledi
Sayadaw)
- Animitta cetosamadhi (Vô tướng tâm định): Định thứ chín trong quá
tŕnh tu tập định của ngài Moggallana, được đề cập đến trong kinh
Godatta, Tương ưng tâm, chương VII, 41, Tương Ưng Bộ Kinh.
Sự phân biệt giữa các tên gọi về Định rất quan trọng. Tuy nhiên hiện vẫn
chưa có một định nghĩa thống nhất về các danh từ này. Ví dụ thế nào mới
là ư nghĩa thực của CHÁNH ĐỊNH (samma samadhi). V́ chánh định là một chi
trong bát chánh đạo nên đương nhiên đa số mọi người cho rằng Định của
Đức Phật đề cập trong kinh mới là Chánh Định. Định mô tả trong Thanh
Tịnh Đạo hay các Định của Bà La Môn (gồm nhiều giáo phái) th́ không phải
là Chánh Định. Có quan điểm cho rằng chỉ có pháp Tuệ Quán (Vipassana)
mới là pháp riêng biệt đặc thù của Đạo Phật, c̣n Định mà Đức Phật dạy
cũng có cội nguồn từ di sản chung của nền Đạo học Ấn Độ. Nhưng có người
khẳng định rằng Định của Đức Phật là riêng của giáo pháp Đức Phật v́ nó
là Định sinh ra từ sự ly dục ly ác pháp. Thật là rắc rối, v́ có ai dám
chắc rằng Định của Bà La Môn là loại Định của những người không ly dục,
không ly ác pháp! V́ Bà La môn (Brahmin) nghĩa là những người chuyên ǵn
giữ phạm hạnh tức là đă có sự tu tập ly dục ly ác pháp rồi!
Ly dục, ly ác pháp
Thiền
định trực tiếp sinh ra các tuệ cho sự giải thoát đối với các tôn giáo và
giáo phái ở Ấn Độ, và đóng góp gián tiếp cho sự giải thoát của Đạo Phật
nguyên thủy, qua phương pháp tuệ quán. Thiền định rất khó thực hiện v́
cơ sở của sự đắc định (theo kinh điển) là một trạng thái thanh tịnh do
Giới hạnh, do “ly dục, ly ác pháp”. Trong thời đại hiện nay, xă hội phát
triển mạnh về đời sống vật chất, con người rất dễ bị xáo động bởi các
giá trị vật chất và đánh mất sự thanh tịnh tâm trí. Khi một thời đại mà
cả thế giới bị dục và tham khuấy động th́ chắc chắn thiền định không đủ
duyên để thành tựu. Điều đó lư giải tại sao, trong một thời gian dài,
thiền định biến mất trong sự tu tập. Có những thắc mắc có vẻ rất bế tắc,
ví dụ: rằng làm sao để tu tập thiền định khi chưa có giác ngộ? Bởi v́
sau lúc giác ngộ ta mới có thể ly dục ly ác pháp. Nói cách khác là điều
kiện “ly dục ly ác pháp” cho việc tu tập thiền định là hoàn toàn mâu
thuẫn và vô lư! Câu trả lời là: Trạng thái gọi là ly dục, ly ác pháp lúc
ấy, phải hiểu là cách ly dục, cách ly ác pháp (tạm thời) trong một
khoảng thời gian nhất định nào đó. Trạng thái ly dục ly ác pháp “tạm
thời” thường không xảy ra với những người có cuộc sống căng thẳng, hoặc
có tâm ô nhiễm nặng nề. Đối với người ít ô nhiễm, cuộc sống tu tập thích
hợp, sẽ có một khoảng thời gian đặc biệt nào đó khi tâm tạm thời xa dục
xa ác pháp, th́ đó là thời điểm của sự đắc thiền. Dĩ nhiên chuyện có thể
tu tập thiền định thành công hay không chỉ được xác nhận bởi những người
đắc định. Hữu duyên cho ai được tiếp xúc với những vị này!
Định thế gian (hiệp thế) và xuất thế gian (Thánh Định)
Khi chứng trú trong thiền định, người hành thiền cũng cố được t́nh trạng
ly dục ly ác pháp đó. Tuy nhiên khi xuất khỏi thiền định th́ trạng thái
ô nhiễm có thể quay lại. Bởi vậy, trong trường hợp này, khi người hành
thiền định chưa có giác ngộ th́ thiền định của người đó được gọi là định
“thế gian” (mundane Jhana). Tại sao biết là định thế gian mà vẫn phải
thực hành? V́ thực hành định thế gian là rèn luyện một công cụ cần thiết
để thực hành thiền quán. Trong sự thực hành đạo lộ đi tới giác ngộ,
thiền định nên được xem là một phương tiện, hơn là một cứu cánh. Sau khi
chứng nghiệm các tầng tuệ và giác ngộ, tức đạt một trong bốn quả Thánh,
khi vị ấy nhập vào thiền định th́ lúc này định của vị ấy được gọi là
định “xuất thế gian” (supramundane jhana) mà nhiều người gọi là Thánh
định. Phải khẳng định rằng một người khi bắt đầu tu tập th́ không thể
nào tu tập Thánh Định được cả, bởi v́ Thánh Định tức Thánh Quả Định (Phalasamāpatti)
chỉ có được sau khi giác ngộ! Thánh Quả Định là một loại thiền siêu thế
có Níp Bàn làm đối tượng. Mong rằng tất cả những tŕnh bày, phân tích về
các vấn đề phức tạp và tế nhị này, có thể giúp xóa đi các định kiến gọi
là sự “vô ích” và “nguy hiểm” của thiền định! Và cũng để hiểu rằng tại
sao người tu phải chấp nhận một loại Định dùng làm phương tiện gọi là
Định thế gian hay hiệp thế (mundane jhana)
7. Mục đích của thiền định để thực hiện cái gọi là “như
thực rơ biết”
Hăy nghe
lời Đức Phật giải thích về vai tṛ của thiền định trong Phẩm Định,
chương XII, Tương Ưng sự thật, tập V, chương Đại phẩm:
“ Này các Tỷ-kheo, hăy tu tập định.
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có định, như thật rơ biết (yathābhūtaṁ
pajānāti) các pháp (dhamma). Và như thật rơ biết ǵ? Như thật rơ biết: "Đây
là Khổ". Như thật rơ biết: "Đây là Khổ tập". Như thật rơ biết: "Đây là
Khổ diệt". Như thật rơ biết: "Đây là Con Đường đưa đến Khổ diệt".
Này các Tỷ-kheo, hăy tu tập định.
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có định, như thật rơ biết các pháp. Do vậy, này
các Tỷ-kheo, một cố gắng cần phải làm để rơ biết: "Đây là Khổ". Một cố
gắng cần phải làm để rơ biết: "Đây là Khổ tập". Một cố gắng cần phải làm
để rơ biết: "Đây là Khổ diệt". Một cố gắng cần phải làm để rơ biết: "Đây
là Con Đường đưa đến Khổ diệt".
8. Đức Phật đă tu tập thiền định và ca ngợi sự tu tập
thiền định
Đức Phật
có khuyến khích tu tập thiền định hay không? Hăy xem lại kinh điển. Có
rất nhiều những bài kinh, đoạn kinh, nói về sự cần thiết và lợi ích của
viêc tu tập thiền định. Ví dụ phẩm Thiền Định 1 và 2 (chương Một pháp,
Tăng Chi Bộ Kinh), phẩm Định, tương ưng sự thật (chương XXII, Tương Ưng
Bộ Kinh), kinh Đại Bát Niết Bàn (Trung Bộ Kinh) và vố số những bài kinh
khác trong năm bộ Nikaya… Trong đoạn trích từ Đại Kinh Saccaka dưới đây:
Đức Phật kể lại sự tu tập bốn thiền hữu sắc của Ngài:
“…Này
Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta biết, trong khi phụ thân Ta,
thuộc gịng Sakka (Thích-ca) đang cày và Ta đang ngồi dưới bóng mát cây
diêm-phù-đề (jambu), Ta ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền
thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ". Khi an
trú như vậy, Ta nghĩ: "Đạo lộ này có thể đưa đến giác ngộ chăng?" Và này
Aggivessana, tiếp theo ư niệm ấy, ư thức này khởi lên nơi Ta: "Đây là
đạo lộ đưa đến giác ngộ".
Này
Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: "Ta có sợ chăng lạc thọ này, một lạc thọ
ly dục, ly pháp bất thiện?" Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: "Ta không
sợ lạc thọ này, một lạc thọ ly dục, ly pháp bất thiện".
Rồi này
Aggivessana, Ta suy nghĩ: "Nay thật không dễ ǵ chứng đạt lạc thọ ấy,
với thân thể ốm yếu kinh khủng như thế này. Ta hăy ăn thô thực, ăn cơm
chua". Rồi này Aggivessana, Ta ăn thô thực, ăn cơm chua. Này Aggivessana,
lúc bấy giờ, năm Tỷ-kheo đang hầu hạ Ta suy nghĩ: "Khi nào Sa-môn Gotama
chứng pháp, vị ấy sẽ nói cho chúng ta biết". Này Aggivessana, khi thấy
Ta ăn thô thực, ăn cơm chua, các vị ấy chán ghét Ta, bỏ đi và nói: "Sa-môn
Gotama nay sống đầy đủ vật chất, từ bỏ tinh tấn, trở lui đời sống sung
túc".
Và này
Aggivessana, sau khi ăn thô thực và được sức lực trở lại, Ta ly dục, ly
pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly
dục sanh, có tầm, có tứ. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi
Ta được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Diệt
tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định
sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này Aggivessana, như vậy
lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Ly hỷ
trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi
là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này Aggivessana, như vậy
lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Xả lạc
xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không
khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi
lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Cuối cùng
trước khi nhập diệt, lời di huấn của Đức Phật để lại trong Kinh Đại Bát
Níp Bàn (D.N, Mahaparinibbana):
“ Đây là Giới, đây là Định, đây là Tuệ. Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến
quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi
ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu
hoặc, tức là dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu…. »
II. Tuệ Quán
1. Phương pháp Tuệ Quán (Vipassanā)
Là một sáng tạo riêng của Đức Phật, là con
đường dùng trí tuệ để thực hiện giải thoát. Có thể có rất nhiều pháp môn
cũng nói về trí tuệ, nhưng ngoài giáo pháp của Đức Phật không có sự mô
tả chi tiết về các tuệ, cũng như không hề có sự mô tả về các qui tŕnh
thực hiện các tuệ. Cùng đặt cơ sở trên kinh điển như Kinh Quán Niệm hơi
thở, Đại Niệm Xứ (Mahāsatipatthāna) v.v.., nhưng hiện nay có rất nhiều
qui tŕnh tu tập Vipassanā khác nhau được các trường phái đề xướng. Hoặc
nghiêng về quán thân (Kayānupassanā), hoặc nghiêng về quán Tâm (Cittānupassanā),
hoặc nghiêng về quán thọ (Vedanānupassanā). Hoặc có kết hợp với thiền
định hoặc không kết hợp với thiền định. Hoặc kết hợp với một mưc độ định
thật sâu, hoặc kết hợp với một mức định vừa hoặc nhẹ hơn. Dưới đây là
liệt kê (chỉ có tính sơ sài) về một số các trường phái Vipassanā kết hợp
với mức độ định sâu, vừa hoặc nhẹ như sau :
- Vipassanā kết hợp với định rất sâu :
Sayadaw Pa Auk Tawya, Myanmar
- Vipassanā kết hợp với mức độ định vừa
Ajahn Brahmavamso, người Anh, West Australia
- Vipassanā kết hợp với mức độ định nhẹ
Ayya Khemal, người Đức gốc Do Thái
Bhante Gunaratana, người Sri Lanka, Washington DC, U.S.A
Ajahn Thanissaro, người Mỹ, San Diego, Cali, U.S.A
- Vipassana trong kinh Nikayas
Có người cho rằng từ “Vipassana” không có trong kinh, mà chỉ là một từ
được thêm vào phương pháp tu tập của Theravada, rất muộn về sau này.
Điều công kích này hoàn toàn không đúng. Chữ Vipassana có trong rất
nhiều kinh Nikaya. Dưới đây là một vài ví dụ:
- Samyutta 35.245: ‘Sīghaṃ dūtayugan’ti kho, bhikkhu,
samathavipassanānetaṃ adhivacanaṃ.
- Anguttara 2:173.“Dveme, bhikkhave, dhammā. Katame dve? Samatho ca
vipassanā ca. Ime kho, bhikkhave, dve dhammā”.
Hoặc Anguttara,4,2:10
Yo hi koci, āvuso, bhikkhu vā bhikkhunī vā mama santike arahattappattiṃ
byākaroti, sabbo so catūhi maggehi, etesaṃ vā aññatarena.
Katamehi catūhi? Idha, āvuso, bhikkhu samathapubbaṅgamaṃ vipassanaṃ
bhāveti. Tassa samathapubbaṅgamaṃ vipassanaṃ bhāvayato maggo sañjāyati.
So taṃ maggaṃ āsevati bhāveti bahulīkaroti. Tassa taṃ maggaṃ āsevato
bhāvayato bahulīkaroto saṃyojanāni pahīyanti, anusayā byantīhonti.
1003 Puna caparaṃ, āvuso, bhikkhu vipassanāpubbaṅgamaṃ samathaṃ bhāveti.
Tassa vipassanāpubbaṅgamaṃ samathaṃ bhāvayato maggo sañjāyati. So taṃ
maggaṃ āsevati bhāveti bahulīkaroti. Tassa taṃ maggaṃ āsevato bhāvayato
bahulīkaroto saṃyojanāni pahīyanti, anusayā byantīhonti.
1004 Puna caparaṃ, āvuso, bhikkhu samathavipassanaṃ yuganaddhaṃ bhāveti.
Tassa samathavipassanaṃ yuganaddhaṃ bhāvayato maggo sañjāyati. So taṃ
maggaṃ āsevati bhāveti bahulīkaroti. Tassa taṃ maggaṃ āsevato bhāvayato
bahulīkaroto saṃyojanāni pahīyanti, anusayā byantīhonti.
- Mười sáu tầng Tuệ:
Theo Kinh Trạm Xe (Rathavinīta Sutta) và theo Thanh Tịnh Đạo, sự tu
chứng được thực hiện qua bảy giai đoạn thanh tịnh tâm: Hai giai đoạn đầu
là Thanh tịnh tâm bằng Giới và thanh tịnh tâm bằng Định. Năm giai đoạn
kế là thanh tịnh tâm bằng tuệ quán để thực hiện 16 tuệ căn bản:
1. Thanh tịnh giới,
Sīla-visuddhi (purification of morality)
2. Thanh tịnh tâm bằng định
Citta-visuddhi (purification of the mind by concentration)
3. Kiến thanh tịnh
Diṭṭhi-visuddhi (purification of view)
4. Đoạn Nghi thanh tịnh
Kaṅkhāvitaraṇa-visuddhi (purification by overcoming doubt)
5. Đạo và Phi Đạo Tri kiến thanh tịnh
Maggāmagga-ñāṇa-dassana-visuddhi (purification by knowledge and vision
of what is the path and what is not the path)
6 Đạo Hành Tri Kiến thanh tịnh
Paṭipadā-ñāṇadassana-visuddhi (purification by knowledge and vision of
the way)
7. Tri Kiến thanh tịnh
Ñāṇadassana-visuddhi (purification by knowledge and vision)
“Với sự trợ giúp của ánh sáng sáng xuyên thấu, rực tỏa từ một tâm có
phối hợp với chánh định (sammāsamādhi), thiền giả thấu suốt vào các pháp
chân đế (paramattha), tức là các pháp tạo nên tâm và thân. Thiền giả xác
định rơ từng tâm (citta), từng tâm sở (cetasika), và từng loại sắc chân
đế (rūpa) bằng phương tiện là các đặc tính (lakkhaṇa), phận sự (kicca),
biểu hiện (paccupaṭṭhāna) và các nhân gần (padaṭṭhāna) tương ứng của
chúng. Kế tiếp, phân biệt các nhân sanh ra danh-sắc này bao gồm các mối
quan hệ nhân quả trong Lư Duyên Khởi (Paṭiccasamuppāda). Sau đó, hành
giả quán xét ba đặc tính của các hành theo nhiều cách đặc biệt như đă
được miêu tả trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhi Magga) để tu tập đúng đắn
minh sát tuệ (vipassanāñāṇa) theo từng tuệ một để có thể chứng đạt mục
tiêu tối hậu của thiền vipassanā – chứng ngộ Niết-bàn.” [30]
Phải thấy được rằng, sự phân tích rạch ṛi và sự mô tả chi li các tuệ và
trí, chính là tinh hoa đặc thù của chánh pháp. Đức Phật là người dạy về
các tuệ cần thiết để giải thoát và người tu phải dùng trải nghiệm cá
nhân để thực chứng chân lư đó. Sự hiểu biết sâu rông về Pháp Học cũng
như sự tin tưởng mạnh mẽ (Tín) về pháp học vẫn chưa đủ cho sự giác ngộ.
Giống như khi ta chỉ biết một người nhưng chưa hề gặp mặt và nói chuyện
(chưa có trải nghiệm) th́ ta chưa đủ hiểu biết về người đó. Chỉ sau khi
mặp mặt, bắt tay, nói chuyện trao đổi (đă có trải nghiệm) th́ mọi sự
hiểu biết (tuệ) về người ấy mới được đầy đủ. Phải “Biết cùng với Thấy”
(Knowing and Seeing) mới sinh ra tuệ giác đầy đủ. Pháp Học, giảng bởi
Đức Phật, chỉ được coi như một triết lư tức lư thuyết đối với người chưa
giác ngộ. Nhưng ngay sau khi pháp học được trải nghiệm (experienced)
thấy rơ như thực (bằng năng lực của Tuệ kết hợp với Định), người tu bấy
giờ trở nên giác ngộ.
2. Nguyên lư của Tuệ quán: Thấy như thực (yathābhūtaṁ
pajānāti, seeing as it is)
Chỉ khi nh́n thấy rơ ràng
(bằng năng lực của cận định) các pháp “như chúng thực là”, chúng ta mới
được hoàn toàn giác ngộ. Rất nhiều sách về tâm linh và tôn giáo cũng nói
về trạng thái nh́n “thấy như thực” hoặc “thấy sự vật như nó là” (seeing
everything as it is). Tuy nhiên cách giải thích th́ hoàn toàn không đúng,
ví dụ giải thích “thấy như thực” là quan sát sự vật mà không dựa vào cảm
tính hay tiên kiến (prejudge) chủ quan. Đạo Phật nguyên thủy dùng chữ
“thấy như thực” theo một ư nghĩa khác. Đó là thấy “như thực” cái thực
tại nội hàm bên trong sự vật. Việc tu tập bắt đầu bằng quan sát ngay
trong thân thể của người tu, bởi v́ lúc khởi đầu minh sát c̣n yếu. Khi
thuần thục th́ có thể chuyển minh sát ra các đối tượng ngoài thân. Thấy
cái “thực tại nội hàm bên trong” nếu liên hệ với Phật giáo phát triển,
giống như là thấy “Tánh” hay “kiến tánh” (nếu muốn gọi kiểu như vậy).
Con mắt xuyên thấu của Tuệ quán (Vipassana) có thể “nh́n thấy như thực”
nghĩa là nh́n thấy sự-vật ở mức độ chân đế: Danh, Sắc cấu tạo như thế
nào? Ngũ uẩn, duyên-hợp vận hành ra làm sao? v.v…Điều này giác quan và
tâm trí trong điều kiện b́nh thường không thể làm được. Từ lúc Đạo Phật
suy tàn, hơn hai ngàn năm cho đến tận hôm nay, biết bao công sức tu tập
đă trôi sông trôi biển, v́ không hiểu ư nghĩa của việc thấy “như chúng
thực sự là”. V́ thế cũng không hiểu “kiến tánh thành Phật” là kiến cái
“tánh” nào và bằng “phương pháp” nào!
Thế giới của Danh và Sắc mà chúng ta đang thấy chỉ là hiện tượng bên
ngoài. Thấy cái hiện tượng bên ngoài đó không phải là thấy như thực! Chỉ
có thiền quán, dựa trên định lực mạnh mẽ, mới biết và thấy sự vật “như
chúng thực là”. Triết học Tây phương bế tắc v́ không nh́n thấy được sự
vật “như chúng thực là”. Họ biết là trong mỗi vật hay hiện tượng có hàm
chứa một nội dung mà tri giác (perception) con người không nắm bắt được
và gọi đó là vật tự thân (thing-in-itself, chose-en-soi, noumenon) [31].
Vật tự thân nói lên giới hạn của tri giác con người trong điều kiện sinh
lư b́nh thường. Mặc dù khoa học cũng có thể dùng các công cụ tinh xảo để
thâm nhập vào vật tự thân, nhưng cái biết và thấy đó chỉ là gián tiếp v́
phải qua trung gian của công cụ. Đôi khi cái biết của khoa học cũng chỉ
là một giả thuyết (hypothese) hợp lư, như giả thuyết về cấu trúc và các
cầu nối giữa những nguyên tử v.v…Đó là những cấu trúc mà con người không
trực tiếp nh́n thấy. Tuệ quán (với năng lực của cận định) giúp tri giác
con người vượt qua điều kiện b́nh thường để thâm nhập trực tiếp vào thế
giới của vật tự thân. Cái biết và thấy của thiền quán do đó khác với cái
biết và thấy của khoa học. Các tổ hợp kalapa của vật chất, được trải
nghiệm qua tuệ quán, khác với mô tả của khoa học về các nguyên tố và hợp
chất. Đây là điều ḱ diệu và phi thường về cái biết và thấy như thực của
tuệ quán!
Tuệ tri như chúng thực sự là (yathābhūtaṁ pajānāti’) chính là nguyên lư
của tuệ quán và chính là phương pháp của Đạo Phật để nh́n thấy sự thực,
tức các pháp chân đế (paramattha), nằm bên dưới các hiện tượng bề mặt.
Do biết và thấy các pháp chân đế, do thu đạt được đủ các tuệ cần thiết,
người tu tiến dần tới Đại giác ngộ. Trong lịch sử thời giáo pháp nguyên
thủy, các bộ Nikaya hoàn toàn không ghi nhận được trường hợp nào không
có thiền định, không có tuệ quán, không thấy các pháp như thực, mà lại…
hốt nhiên đại ngộ!
3. Mối liên hệ giữa Tuệ Quán và Thiền Định
Thông tin đại chúng hiện nay không biết ǵ nhiều đối với một số sự thực
về Đạo Phật. Trái với một lịch sử lâu dài hơn 2500 năm, được rất nhiều
người châu Á sùng bái và tu tập dưới h́nh thức một Đạo Phật “tín ngưỡng”,
Đạo Phật “giải thoát” thực sự đă suy tàn và dần dần biến mất. Trước tiên,
Đạo Phật biến mất tại Ấn Độ, cái nôi sinh trưởng ra nó [33]. Sau đó Đạo
Phật suy tàn tại Sri Lanka, nơi mà nó đă có một thời gian dài tránh khỏi
sự đàn áp của đạo Bà La Môn Ấn Độ. Nới trú ngụ sau cùng của giáo pháp
nguyên thủy hiện nay là tại Myanmar, một quốc gia lấy Đạo Phật làm quốc
giáo. Tất cả những di tích về Đạo Phật mới chỉ t́m thấy trong thời gian
khoảng 100 năm trở lại đây. Đặc biệt Lumbini, nơi Đức Phật sinh ra, chỉ
mới được Unessco xác nhận là di tích lịch sử vào năm 1997. Các kinh điển
Pali quí giá cũng mới được phương Tây dịch ra Anh ngữ, khi Ấn Độ c̣n là
thuộc địa của người Anh. V́ giáo pháp của Đức Phật quá vĩ đại và sâu sắc
nên qua thời gian, toàn bộ tinh hoa của giáo pháp nguyên thủy (do Đức
Phật dạy) đă không c̣n được hiểu biết cặn kẽ nữa. Giáo pháp gọi là
“nguyên thủy” hiện giờ chỉ dựa vào những suy luận trên Luật, Kinh, Thắng
pháp và những cuốn chú giải. Khác với Đạo Phật “dạng tín ngưỡng” lúc nào
cũng lan tràn phổ biến khắp nơi, giáo pháp nguyên thủy, tức giáo pháp
thực sự do Đức Phật dạy để giúp con người đạt tới giải thoát, nói chung,
phải được coi như đang trong thời kỳ phục dựng lại. Một Phật tử chân
chánh phải nh́n thấy sự thực này và phải chấp nhận sự thực này nếu muốn
phục hồi lại tinh hoa của chánh pháp! Các vị A La Hán cần phải xuất hiện
và đồng thời các Phật tử phải phân biệt được và nhận ra sự xuất hiện của
các vị A La Hán ấy. Giáo pháp của Đức Phật chỉ phục sinh nếu nó thực sự
đưa lại giác ngộ. Nghĩa là, chỉ khi nào sự tu chứng trở nên phổ biến và
lần lượt có các vị đắc chứng các quả Thánh!
Sự phục hồi của Vipassanā sau những năm dài thất lạc mới chỉ được khôi
phục khoảng năm mươi năm trở lại đây, nhờ công của ngài Mahasi sau lần
kiết tập kinh đển lần thứ sáu tại Yangon (1954). V́ mới phục dựng, nên
mối quan hệ giữa thiền định và tuệ quán vẫn c̣n chưa được hiểu hết,
không những ở giới cư sĩ mà ngay trong các tăng đoàn của các quốc gia mà
Đạo Phật là quốc giáo! Tại thời điểm này, trong các tăng đoàn Theravada
người ta thấy rất nhiều phương pháp tu tập khác nhau. Có quan điểm lại
đứng trên lập trường của Phật giáo phát triển, cho rằng chỉ cần giữ đúng
nguyên lư tu tập, c̣n về phương pháp th́ có thể khác nhau. Nói đến
phương pháp tức là nói đến pháp thực hành (patipatti) chứ không thể nói
đến giáo thuyết hay pháp học được. Vậy nguyên lư trong pháp hành của
giáo pháp nguyên thủy là ǵ? Có phải là nguyên lư “nh́n thấy như thực”
Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế và khi giác ngộ, nh́n thấy như thực các lộ tŕnh
tâm của bốn Đạo và bốn Quả sa môn. Trong sự không thống nhất các phương
pháp thực hành, xuất hiện quan điểm xem nhẹ thiền định. Trong một thời
gian dài, Phật tử Theravada dường như không c̣n nắm được ư nghĩa của
thiền định nữa. Ví dụ như khi nói về định, các Phật tử thường lập lại
lời dạy truyền thống: Định để làm ǵ? Định như ḥn đá đè cỏ, dở ḥn đá
ra, cỏ mọc trở lại! Sự rập khuôn của người tu, do qui phục những định
kiến truyền thống, vô t́nh đánh mất một nửa pháp hành của Đức Phật! Có
người c̣n sợ, c̣n hoài nghi thiền định là ngoại đạo Bà La môn. Trong
lịch sử, Bà La Môn cũng có thiền định với tám tầng thiền chứng. Dù có
giống nhau ở điểm nào nhưng mục đích của thiền định Phật giáo và Bà La
môn giáo là hoàn toàn khác nhau. Không có một sự vật hay hiện tượng hay
khái niệm nào có thể xuất hiện và tồn tại một cách độc lập với những mối
liên hệ xung quanh.. Đạo Phật cũng xuất hiện, tồn tại trong mối tương
quan mật thiết với nền văn minh gốc rễ của nó. Lúc bắt đầu đi tu, sa môn
Gautama cũng xuất phát từ các giáo thuyết của Bà La Môn, cũng được dạy
và tu tập các thiền định của Bà la Môn như những tu sĩ khác trong rừng
Khổ Hạnh (Uruvela). Chỉ sau này, khi giác ngộ hoàn toàn, ngài mới phê
b́nh các quan điểm sai lầm của triết học Vệ Đà để hoàn chỉnh một giáo
pháp riêng. Đối với pháp hành của Đạo Phật, chỉ có Tuệ Quán (Vipassanā)
là phương pháp đặc thù riêng mà các Bà La Môn đương thời và trước đó
chưa biết đến. Trong thời điểm hiện tại, sự thực về Đức Phật và giáo
pháp của ngài chỉ c̣n lại trong các bộ kinh, coi như là bằng chứng duy
nhất. Do đó, không có chọn lựa nào khác ngoài việc dựa trên kinh điển (một
cách thận trọng) để t́m lại giáo pháp thực sự của Đức Phật. Trong các bộ
Nikaya đă có sự mô tả rơ ràng phương pháp tu tập của Đức Phật, ví dụ
kinh Saccaka kể lại việc Đức Phật đă thực hành Thiền quán sau khi đă vào
tứ thiền:
“…Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng không cấu nhiễm, không phiền
năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, b́nh tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm,
hướng tâm đến Lậu tận trí. Ta biết như thật: “Đây là Khổ”, biết như thật:
“Đây là Nguyên nhân của khổ”, biết như thật: “Đây là sự Diệt khổ”, biết
như thật: “Đây là Con đường đưa đến diệt khổ”, biết như thật: “Đây là
những lậu hoặc”, biết như thật: “Đây là nguyên nhân của lậu hoặc”, biết
như thật: “Đây là sự diệt trừ các lậu hoặc”, biết như thật: “Đây là con
đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc”. Nhờ biết như vậy, nhận thức như
vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô
minh lậu. Đối với tự thân đă giải thoát như vậy, Ta khởi lên sự hiểu
biết: “Ta đă giải thoát.” Ta đă biết: “Sanh đă diệt, phạm hạnh đă thành,
việc cần làm đă làm, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa”.
Này Aggivessana, đó là minh thứ ba mà Ta đă chứng được trong canh cuối,
vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng
dật, nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta,
được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. …”
Như mô tả của đoạn kinh trên: “…Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong
sáng không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc,
b́nh tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến …” rơ ràng phải có tâm
tương ứng với định mới có thể giúp người tu nh́n thấy rơ “như thực” các
pháp chân đế (paramattha). Thực hành tuệ quán trên các pháp chân đế mới
có thể thu hoạch các tuệ toàn măn và nhờ đó mới đạt được giác ngộ. Nhờ
có định lực mạnh mẽ người tu có thể nhận thấy rơ từng tâm (citta) trong
qui tŕnh tâm (vīthicitta) của ḿnh và biết được sự chuyển biến của tâm
lúc giác ngộ, lúc chuyển phàm thành thánh. Không có Định việc thực hành
Vipassana không mang lại đủ tuệ cần thiết cho sự giác ngộ.
4. Bốn đạo lộ
Tuy nhiên, một cách chính xác theo kinh, có khả năng có đến bốn đạo lộ
tu tập [34] xét về sự kết hợp giữa Định và Tuệ. Ngài Anan nói với các tỳ
khưu, như sau:
- Ở đây, này chư Hiền, Tỳ-khưu tu tập quán, có chỉ đi trước; do vị ấy tu
tập quán có chỉ đi trước, con đường được sanh khởi. Vị ấy thực hành con
đường ấy, tu tập, làm cho sung măn. Do vị ấy thực hành con đường ấy, tu
tập, làm cho sung măn, các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm
dứt.
· Lại nữa, này chư Hiền, vị Tỳ-khưu tu tập chỉ, có quán đi trước. Do vị
ấy tu tập chỉ có quán đi trước, con đường được sanh khởi. Vị ấy thực
hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung măn. Do vị ấy thực hành con
đường ấy, tu tập, làm cho sung măn, các kiết sử được đoạn tận, các tùy
miên được chấm dứt.
· Lại nữa, này chư Hiền, Tỳ-khưu tu tập cả hai chỉ quán gắn liền với
nhau. Do vị ấy tu tập cả hai chỉ quán gắn liền với nhau, con đường được
sanh khởi. Vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung măn. Do vị
ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung măn, các kiết sử được
đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt.
· Lại nữa, này chư Hiền, Tỳ-khưu với các dao động đối với các pháp được
hoàn toàn dứt sạch. Này các Hiền giả, đây là thời khi tâm của vị ấy an
trú, an tọa, nhất tâm, định tĩnh. Với vị ấy, con đường sanh khởi. Vị ấy
thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung măn. Do vị ấy thực hành con
đường ấy, tu tập, làm cho sung măn, các kiết sử được đoạn tận, các tùy
miên được chấm dứt. (Kinh Gắn Liền Cột Chặt, Tăng Chi Bộ kinh, IV.170)
Giải thích:
- Đạo lộ thứ nhất “Định trước Tuệ sau”: người tu phải cố đạt được từ một
cho đến tám tầng thiền chứng. Bốn định hữu sắc và bốn định vô sắc là tám
tầng thiền chứng (satipattana). Cách tu này rất khó tại thời điểm bắt
đầu, sau đó đi rất nhanh qua các tầng tuệ v́ năng lực Định đă rất vững
mạnh..
- Đạo lộ thứ hai “Tuệ trước định sau” cũng rất phổ biến và người tu tập
theo đạo lộ này gọi là “hành giả thuần quán”. Trái với mọi hiểu biết
thường cho rằng thuần quán là không tu tập định ǵ cả. V́ như đă tŕnh
bày, nếu không có định, sẽ không thu được một tầng tuệ nào cả. Sayadaw
Pa Auk giải thích như sau:
Những hành giả hành thẳng thiền Minh-sát (Vipassana) không có bất cứ một
thiền chứng nào được gọi là thuần quán hành giả hay khô quán hành giả (sukkhavipassaka).
Trước tiên họ phải hành thiền tứ đại, vốn là một đề mục thiền căn bản và
bắt buộc cho mọi hành giả thuần quán. Với sự trợ giúp của định mạnh và
vững chắc do hành thiền tứ đại đem lại, họ sẽ thấy các tổng hợp sắc (rūpakalāpa),
hay các phân tử nhỏ của vật chất. Nhờ phân tích các kalāpa và thể nhập
vào sắc tối hậu (sắc chân đế), họ phá vỡ được tính rắn chắc của sắc (vật
chất). Kế đó họ phân biệt các căn xứ và đối tượng của danh cùng nhau để
giúp cho việc quán các trạng thái tâm thiện và bất thiện. Sau đó, họ
phải phân biệt các nhân của danh & sắc, và rồi quán sắc, danh và các
nhân của chúng như vô thường, khổ và vô ngă. Theo cách này, khi minh sát
trí của họ thuần thục, họ sẽ chứng ngộ Niết-bàn. Dĩ nhiên đây chỉ là một
sự giải thích tóm tắt về sự thực hành của các hành giả thuần quán mà
thôi. (Các câu hỏi và trả lời, Pa Auk Sayadaw).
C̣n các Đạo lộ thứ ba và thứ tư, hiện chưa biết được trường phái nào
đang thực hành!
Pháp Tuệ Quán luôn phải dùng cận định làm nền tảng dù đó là pháp tuệ
quán của các hành giả đi theo con đường gọi là “thuần quán”! Xin nhấn
mạnh một lần nữa, về thắc mắc rằng trong trạng thái định, tâm cột chặt
vào đối tượng, lấy ǵ quan sát các hiện tượng đang xảy ra? Các thiền sư
giải thích:
Khi nhập vào chánh định (appanā-samādhi) hay ở trạng thái cận định-
upacāra samādhi) tâm trở nên trong sáng rực rỡ, thiền giả xuất ra khỏi
định. Tâm khi vừa xuất ra khỏi định rất mạnh, có thể quan sát tất cả các
pháp vi tế ở mức độ gọi là chân đế như đă mô tả ở trên! Quan sát và thấy
“như thực” có nghĩa là như vậy!
6.Việc kiểm chứng các trải nghiệm trong khi tu tập
Khi thiền sinh thành tựu một bậc thiền, hoặc một tuệ minh sát th́ thiền
sinh phải tŕnh các trải nghiệm của ḿnh cho một vị thày phụ trách. Với
sự hiểu biết tinh tế và các câu hỏi kiểm tra tế nhị, vị thầy có thể xác
nhân sự thành công hay chưa thành công của từng thiền sinh. Nếu thiền
sinh nói dối hay cường điệu các trải nghiệm của ḿnh, th́ chắc chắn sẽ
bị phát hiện. Nói đến điều này để thấy rằng cái ǵ cũng cần tiêu chuẩn
để xác chứng. Một bậc thiền, ví dụ sơ thiền phải được xác nhận với năm
thiền chi (mental factors). Thế nào là Hỷ, Lạc, Tầm, Tứ, Định nhất tâm
v.v.. . Hiện tại có các thiền sư nổi tiếng nói về sự an lạc khi an trú
trong hiện tại, nhưng trạng thái tâm đó được xác nhận như thế nào? Chánh
pháp của Đạo Phật không hề mơ hồ về điều này, các tiểu chuẩn đă được
liệt kê đầy đủ trong kinh điển để tránh cho người tu tập lầm lẫn giữa
một cái an lạc dạng “tâm lư trị liệu” và một cái an lạc thực sự của một
bậc thiền được xác chứng. (nhắc lại an lạc không phải là mục đích của
thiền định như đa số mọi người lầm tưởng). Một tầng tuệ cũng được duyệt
xét bởi vị thày hướng dẫn. Không thể có gian dối trong môi trường giới
luật của Đạo Phật chân chính. Một điểm vô cùng đặc biệt trong giáo pháp
nguyên thủy, là người tu thiền có thể nh́n thấy cụ thể và rơ ràng lô
tŕnh tâm giác ngộ của chính ḿnh. Khi thực hành thành công, dù với niềm
vui sướng nhưng thiền sinh luôn được khuyên rằng chỉ nên trao đổi với
người cùng tu tập. Lư do: sự công kích mănh liệt của thế gian! Chính v́
lư do này, hiện nay mạch ngầm của chánh pháp vẫn âm thầm chảy! Khi thời
điểm thuận lợi đến, nó sẽ dần hé lộ cho người đủ hữu duyên!
6. Định và Tuệ trong phương pháp luận khoa học
Khoa học, cho đến nay, vẫn sử dụng những phương pháp lư luận (logic)
chính, như diễn dịch, qui nạp, loại suy, phân tích, tổng hợp, biện chứng.
Phương pháp quy nạp (induction) ví dụ như từ một thí nghiệm có tính
riêng lẻ ta rút ra được một qui luật chung có tính phổ quát.
Khi nhập vào Định, thiền giả có được rất nhiều trải nghiệm mới lạ mà một
tâm trí b́nh thường không thể có được như các chiều kích mới của không
gian và thời gian, sự vắng lặng, tỉnh táo, sáng tỏ, tương quan chủ thể-
khách thể thay đổi v.v… Đó là các tuệ do Định sinh ra. Có người đă nhân
ra trong an chỉ định (appanā-samādhi) một tuệ về trạng thái bất nhị v́
khi nhập vào chánh định, người nhận thức và đối tượng được trở thành một
[16]. Từ những trải nghiệm này, khi xuất ra khỏi định, người tu định rút
ra được những tri kiến, những quy luật về thế giới hoàn toàn mới mẻ mà
trong đời sống trước đây, lúc chưa nhập định, họ chưa hề biết tới. Qui
tŕnh rút ra những tri kiến mới mẻ, từ trải nghiệm tâm linh (spiritual
experiences) của thiền định, giống như qui tŕnh qui nạp trong lư luận
khoa học.
Phương pháp diễn dịch (deduction): ví dụ như từ một lư thuyết (theory)
coi như tiền đề (premise), qua thực nghiệm minh chứng, ta xác chứng được
lư thuyết đúng hay sai. Trong thực hành Tuệ Quán, với qui tŕnh tu tập
các tuệ minh sát được hướng dẫn sẵn (tức một lư thuyết có tính tiền đề)
ta thực hiện trải nghiệm thiền quán, sau đó xác nhận tính chân lư của
qui tŕnh (và nhờ trải nghiệm “như thực” đó ta giác ngộ). Qui tŕnh này
giống hệt như qui tŕnh diễn dịch trong các ngành khoa học hiện nay.
Cách mô tả, diễn giải và biện giải trong Kinh, Vi Diệu Pháp, Phân Tích
Đạo, Thanh Tịnh Đạo…đều là phương pháp phân tích khoa học. Trong giáo
pháp nguyên thủy có đề cập tới năng lực của bốn Tuệ phân tích của các
bậc Thánh, thường gọi là Tứ Tuệ phân tích:
- Tuệ về tính chất khác biệt của các ư nghĩa là trí về sự phân tích các
ư nghĩa,
- Tuệ về tính chất khác biệt của các pháp là trí về sự phân tích các
pháp,
- Tuệ về tính chất khác biệt của các ngôn từ là trí về sự phân tích các
ngôn từ,
- Tuệ về tính chất khác biệt của các phép biện giải là trí về sự phân
tích các phép biện giải là (có ư nghĩa) thế nào?
Như vậy, thật bất ngờ, ta thấy phương pháp luận trong Đạo Phật là một
phương pháp cũng có logic giống như các phương pháp luận của khoa học.
Đề cập đến mối liên hệ giữa cách tu tập trong đạo Phật với các logic
khoa học như trên, chỉ nhằm mục đích loại bỏ quan niệm cho rằng trong tu
tập cần phải bỏ qua lư trí mà chỉ cần trực giác. Trực giác (tuệ) không
thể phát sinh nếu không có tu tập. Tuệ không phải tự dưng đột nhiên mà
có nếu không có phương pháp đúng đắn do lư trí hướng dẫn. Dù là pháp học
hay pháp hành yếu tố lư trí vẫn cần phải có. Qui tŕnh tu tập Định và
Tuệ rất xa với thần bí mà rất gần với khoa học.
B.S Phạm Doăn
Hiệu đính: 01/
09/2011
Chú thích
[17] Xem The Jhana, phần III,
Chuẩn mốc của các bậc thiền by Ajahn Brahm.
http://thienviennguyenthuy.wordpress.com/2010/06/20/d%E1%BB%8Bnh-jhana/?preview=true&preview_id=3572&preview_nonce=2748e43101
[18] Xem The Jhana, phần II,
Nimitta giai đoạn cuối của quá tŕnh nhập định
[19] Theo “Biết và Thấy”, bài
pháp thoại 4, Làm thế nào để phân biệt sắc. Tác giả Pa Auk Tawya Sayadaw,
Tỳ Khưu Pháp Thông dịch ra tiếng Việt.
[20] Sát na định (khaṇika
samādhi) được hiểu là giữ định trong vài sát na rồi di chuyển đến đối
tượng khác.U Silananda coi Sát na định cũng như là Chánh định:
http://www.budsas.org/uni/u-dainiemxu/dnx04d.htm (phần
chánh định)
[21] Thiền Tứ Đại (Catudhatu
Vavatthana)
http://thienviennguyenthuy.wordpress.com/2009/09/19/thi%E1%BB%81n-t%E1%BB%A9-d%E1%BA%A1i-catudhatu-vavatthana/
[22] No real differencies in
various kinds of Jhanas
http://vn.360plus.yahoo.com/phamdoan52/article?mid=2262
[23] Ánh sáng và Nimitta, Bhikkhu Dhammapala
[24] The Mystery of the Breath Nimitta by Bhikkhu Sona
[25] Patisamdhidamagga, đoạn
giảng về niệm hơi thở
http://vn.360plus.yahoo.com/phamdoan52/article?mid=2342&prev=2348&next=2329
[26]
http://en.wikipedia.org/wiki/Contemporary_Sant_Mat_movements
[27] “Breakthrough in
Tranquillity Meditation (Samatha)” and “Breakthrough
in Insight Meditation (Vipassanā)”, Main paper, introduction,
by Sayadaw Āciṇṇa and prof. Mehm Tin Mol, Ph.D. Yangon Myanmar 2004.
trang 43
[28] “Breakthrough in
Tranquillity Meditation (Samatha Bhavana)” and
“Breakthrough in Insight Meditation (Vipassanā)”, Đồng tác giả:
Pa Auk Tawya sayadaw & Mehm Tin Mol. Ph D. Trang 76-77
[29] Vật tự thân
(Thing-in-itself, chose-en-soi, noumenon)
http://www.britannica.com/EBchecked/topic/592145/thing-in-itself
[30] Kinh ngụy tạo(Apocrypha)
http://vn.360plus.yahoo.com/phamdoan52/article?mid=2114
[31] V́ sao Phật giáo suy tàn
tại Ấn Độ, Diwan Chand Ahir, 2005
http://vn.360plus.yahoo.com/phamdoan52/article?mid=2328&prev=2329&next=2314
[32] Bốn đạo lộ tu tập
http://vn.360plus.yahoo.com/phamdoan52/article?new=1&mid=2308
Nguồn: Phạm Doăn Blog
(http://vn.360plus.yahoo.com/phamdoan52)
|
|
|