Trang Chính

Trang Văn Chương Phật Giáo

Font VU-Times

 

 

CHÁNH GIÁC TÔNG (BUDDHAVAMSA)

Ḥa thượng Bửu Chơn

Tam Bảo Tự, Đà Nẳng
In lần thứ nhất: 1954
In lần thứ hai: 1966

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

TIỂU TỰA

Người tu Phật ai ai cũng có đức tin, nhưng nếu không rơ được rành mạch những lịch sử hoặc những hành vi của các vị Bồ tát phải hành thế nào để thành được một bậc Chánh Đẳng Chánh Giác và do nhờ pháp Ba-la-mật (PÀRAMITA) nào đưa các ngài qua tới bờ giác ngạn là Niết Bàn, th́ đức tin ấy có khi cũng mơ hồ và có khi cũng lầm lạc.

V́ vậy nên tôi không nệ tài hèn học kém, ráng sao lục tóm tắt theo Tam Tạng Pàli (TIPITAKA) bộ kinh Chánh giác tông (BUDDHAVAMSA) và quyển Chư Bồ tát vị lai (ANÀGATAVAMSA) để đem lại một vài tia sáng cho các nhà tu Phật. Ai là người có chí muốn thành một bậc Chánh Biến Tri, hăy noi theo gương lành của các Ngài và thực hành theo mới mong chứng quả được.

Trong quyển kinh này có nhiều đoạn hơi khó hiểu hoặc không thể tin được v́ oai lực và pháp Ba-la-mật của một vi Phật Tổ khác Thường xuất chúng và thời đại cũng khác nhau vượt qua khỏi tŕnh độ suy nghĩ hoặc hiểu biết của phàm nhơn.

Nên độc giả xem quyển kinh này nên dùng đức tin mà hiểu biết rằng: "Muốn thành 1 vị Phật Tổ không phải dễ, không phải ai cũng muốn được, và không phải chuyện bịa đặt ra, mà trái lại phải thực hành cho đúng theo thời hạn và điều kiện nhất định và tṛng đủ pháp Ba-la-mật mới thành một vi Phật Tổ được."

Với ḷng Bác ái,
NÀGA THERA (Tỳ Khưu Bửu Chơn),
Đà Nẳng 1954.

-ooOoo-

[01]

CHÁNH GIÁC TÔNG

NAMATTHU RATANA TAYASSA
Xin nghiêm Thân, Khẩu, Ư trong sạch để làm lễ Tam Bảo.

NAMO TASSA BHAGAVATO ARAHATO SAMMÀSAMBUDDHASSA (3 lần)
Tôi xin thành kính làm lễ Đức Thế Tôn, Ngài là bậc A-la-hán Vô thượng,
đă đắc quả Chánh Biến Tri, Tam-miệu Tam-bồ-đề.

PHẬT NGÔN

DHAMMO HAVE RAKKHATI DHAMACÀRIM
DHAMMO SUCINNO SUKHAMÀ VAHATI ESÀNISAMSO
DHAMMESUCINNE NA SUGGATIM GACCHATI DHAMMACÀR̀

Người thực hành theo Pháp Bảo, th́ Pháp Bảo hộ tŕ.
Người hằng tích trử Pháp lành th́ được đến sự an vui và lợi ích .
Người thực hành theo Pháp Bảo, th́ không sanh vào cảnh khổ.


 THẬP ĐỘ BA-LA-MẬT

Trước khi giải về pháp Chánh giác tông tôi xin giải tóm tắt về pháp Thập Độ tín dụng (DASAPÀRAM̀) là pháp của chư Bồ-tát (chúng sanh mà giác ngộ hơn chúng sanh; BODHISATTA) quá khứ, vị lai và hiện tại nguyện thành một bậc Chánh Biến Tri (SAMMÀ SAMBUDDHA) đều phải thực hành theo cho tṛn đủ và cho đúng thời kỳ nhất định mới chứng quả vị được.

DASAPARÀM̀: Mười pháp Ba-la-mật hay Thập Độ là:

1. DÀNA PÀRAM̀: Bố thí Ba-la-mật (Đáo bỉ ngạn tới bờ bên kia Niết Bàn).

2. S̀LA PÀRAM̀: Tŕ giới Ba-la-mật.

3. NEKKHAMMA PÀRAM̀: Xuất gia Ba-la-mật

4. PANNÀ PÀRAM̀: Trí tuệ Ba-la-mật

5. KHANT̀ PÀRAM̀: Nhẫn nhục Ba-la-mật

6. VIRIYA PÀRAM̀: Tinh tấn Ba-la-mật

7. SACCA PÀRAM̀: Chân chánh Ba-la-mật

8. ADHITTHÀNA PÀRAM̀: Nguyện vọng Ba-la-mật

9. METTA PÀRAM̀: Bác ái Ba-la-mật.

10. UPEKKHÀ PÀRAM̀: Xả Ba-la-mật

Trong mỗi pháp trên đây đều chia làm 3 bực là: hạ, trung, thượng, thành ra 30 pháp. Mỗi pháp chia làm 3 bực là:

1. DÀNA PÀRAM̀: Bố thí bực hạ.

KARUNOPÀYA KOSALLA PARITAHITÀ PUTTA DÀRASSA PARICÀGO DÀNA PÀRAM̀ NÀMA.

Người rành mạch trong lúc tâm minh phát sanh v́ ḷng bi mẫn thương xót đến kẻ khác rồi bố thí của cải, vợ, con, gọi là bố thí Ba-la-mật bậc hạ.

2. DÀNA UPPA PÀRAM̀: Bố thí bậc trung.

KARUNOPÀYA KOSALLA PARITAHITÀ ANGA PARICÀGO DÀNA UPPAPÀRAM̀ NÀMA.

Người rành mạch trong lúc tâm minh phát sanh v́ ḷng bi mẫn thương xót đến kẻ khác rồi bố thí tay, chân, thịt, mắt, mũi, ḿnh gọi là bố thí Ba-la-mật bậc trung.

3. DÀNA PARAMATTHA PÀRAMI: Bố thí bậc thượng.

KARUNOPÀYA KOSALLA PARITAHITÀ JIVITA PÀRICÀGO DÀNA PARAMATTHA PÀRAM̀ NÀMA.

Người rành mạch trong lúc tâm minh phát sanh ḷng bi mẫn thương xót đến kẻ khác rồi bố thí mạng sống (là cắt đầu hoặc mỗ lấy tim ḿnh mà cho kẻ khác) gọi là bố thí Ba-la-mật bậc thượng.

C̣n 9 pháp kia khi thực hành cũng mường tượng như trên.

Chỗ nói đúng thời kỳ nhất định là: Phải biết chư Bồ-tát (là chúng sanh mà giác ngộ hơn chúng sanh, chớ không ai gọi là Phật Bồ-tát bao giờ), chia làm 3 bậc:

1- PANNÀDHIKA BODHISATTA: Chư Bồ-tát thuộc về huệ lực, phải tu trong 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp quả địa cầu.

2- SADDHÀDHIKA BODHISATTA: Chư Bồ-tát thuộc về tín lực là có nhiều đức tin, phải tu trong 8 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp.

3- VIRIYÀDHIKA BODHISATTA: Chư Bồ-tát thuộc về tấn lực và nhiều sự tinh tấn, phải tu trong 16 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp quả địa cầu.

Nói về sự nguyện vọng của mỗi vị Bồ-tát chia ra làm 3 thời kỳ:

1. Chư Bồ-tát thuộc về Huệ lực:

a. Thời kỳ nguyện trong tâm không nói ra lời, là 7 A-tăng-kỳ.
b. Thời kỳ phát nguyện ra lời mà chưa gặp Phật nào thọ kư là 9 A-tăng-kỳ .
c. Thời kỳ gặp một vi Phật thọ kư cho tới khi thành tṛn đủ 30 pháp Ba-la-mật và thành đạo là 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp.

2. Chư Bồ-tát thuộc về Tín lực:

a. Thời kỳ nguyện trong tâm là 14 A-tăng-kỳ
b. Thời kỳ phát nguyện bằng lời nói mà chưa gặp Đức Phật thọ kư là 8 A-tăng-kỳ.
c. Thời kỳ gặp một vị Phật tổ thọ kư cho tới ngày thành đạo quả là 8 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp.

3. Chư Bồ-tát thuộc về Tấn lực:

a. Thời kỳ nguyện trong tâm là 28 A-tăng-kỳ.
b. Thời kỳ phát nguyện bằng lời nói mà chưa gặp một vi Phật thọ kư là 36 A-tăng-kỳ .
c. Thời kỳ gặp 1 vị Phật tổ thọ kư cho tới ngày thành đạo quả là 16 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp.

-oOo-

Tất cả chư Bồ-tát trên đây nếu nói tóm lại th́ chỉ c̣n có hai bậc là:

1/ ANIYATA BODHISATTA: Bất Thường Bồ-tát là chư Bồ-tát chưa thành tựu được nguyện vọng, là chư Bồ-tát nào đă nguyện trong tâm hoặc nói ra nhưng mà chưa gặp được một vị Phật tổ nào thọ kư cho th́ chưa chắc sẽ thành một bậc Chánh giác được.

2 / NIYATA BODHISATTA: Thường trụ Bồ-tát là chư Bồ-tát đă thành tựu được nguyện vọng là Bồ-tát đă được truyền hoặc một vị Phật tổ thọ kư, chắc chắn sẽ thành Chánh giác trong ngày vị lai.

-oOo-

SAMODHÀNA DHAMMA: 8 pháp tṛn đủ.

Chư Bồ-tát phải có tṛn đủ 8 pháp:

1- MANUSSATTAM: Phải là loài người chớ không phải trời hay thú.

2- LINGA SAMPATTI: Phải là nam nhơn chớ không phải là phụ nữ hay là bán nam bán nữ.

3- HETU: Có đủ duyên lành để đắc quả Alahán trong kiếp ấy (ví dụ như đạo sĩ Sumedha là Bồ-tát tiền thân Phật tổ Thích Ca)

4- SATTHÀRA DASSANAM: Gặp được Đức Phật ra đời và được làm một điều phước thiện nào tới Đức Phật ấy.

5- PABBAJJÀ: Phải là người xuất gia.

6- GUNA SAMPATTI: Phải đầy đủ những pháp của bậc cao nhơn là có ngũ thông và bát thiền.

7- ADHIKARO: Đă được làm phước báu cao thượng là bố thí mạng sống ḿnh và vợ con ḿnh do tâm nguyện cho thành Chánh giác.

8- CHANDATÀ: Phải có ư nguyện đầy đủ quyết cho thành một bậc Chánh giác dầu cho khó khăn, khổ sở thế nào cũng không nao núng và thối chuyển.

Chư Bồ-tát nào có tṛn đủ 8 pháp trên đây, th́ mới được chư Phật thọ kư cho và từ ấy mới gọi là NIYATA BODHISATTA, là Bồ-tát chắc chắn sẽ thành Chánh giác không sai.

-oOo-

BUDDHA BHÙMI: 4 Pháp căn cứ của chư Bồ-tát đă được thọ kư.

1) USSÀHA: Rất siêng năng dơng mănh trong sự làm điều thiện.

2) UMMAGGA: Có trí tuệ phân biệt thiện ác, để xa lánh điều dữ và hành theo điều lành.

3) AVATTHANA: Có chí quả quyết và cứng rắn là khi đă làm một điều thiện nào không hề thối chuyển và ráng làm cho tới thành tựu.

4) HITACARIYÀ: Khi làm một việc nào toàn là việc hữu ích cho ḿnh và cho kẻ khác.

Chư Bồ-tát đă được thọ kư một khi làm một việc chi đều lấy 4 pháp trên để làm căn cứ cho tâm ḿnh.

-oOo-

AJJHÀSAYA: 6 khuynh huớng của Bồ-tát

Chư Bồ-tát đă được thọ kư đều có 6 khuynh hướng.

1) ALOBHAJJHÀSAYA: Có khuynh hướng không tham, và luôn luôn có tác ư muốn dứt bỏ của cải ḿnh để làm việc hữu ích cho kẻ khác.

2) ADOSAJJHÀSAYA: Có khuynh hướng không sân, và luôn luôn có tâm từ bi đối với kẻ khác.

3) AMOHAJJHÀSAYA: Có khuynh hướng không si, và có trí tuệ suy xét rơ rệt rồi mới tin.

4) NEKKHAMMAJJHÀSAYA: Có khuynh hướng muốn xuất gia, và có ư dứt bỏ các sự quyến luyến.

5) PAVIVEKAJJHÀSAYA: Có khuynh hướng ở nơi thanh vắng, và có ư muốn xa lánh các bè bạn và nơi hội hợp đông đảo.

6) NISSARANAJJHÀSAYA: Có khuynh hướng muốn giải thoát khỏi ái dục, phiền năo và sự khổ năo của cơi thế gian.

Chư Bồ-tát đă được thọ kư rồi th́ luôn luôn có những tư cách và nết hạnh đă kể trên.

-oOo-

ACCHARIYA DHAMMA: 7 pháp xuất chúng của chư Bồ-tát đă được thọ kư.

1) PÀPPATIKUTHA CITTO: Có tâm gớm ghê điều xất xa tội lỗi, là tâm của Bồ-tát đă được thọ kư rồi th́ hổ thenï và ghê sợ điều tội lỗi cũng như người bị phỏng lửa thấy lửa ghê sợ vậy.

2) PASÀRANA CITTO: Có tâm vui thích theo điều thiện, là tâm của Bồ-tát lúc nào cũng vui tươi thỏa thích đến điều lành việc phải, một khi đă làm điều thiện nào th́ sốt sắng vui vẻ làm cho đến khi được thành tựu không bao giờ bỏ dỡ.

3) ADHIMUTTA KÀLAKIRIYÀ: Tâm nguyện ngưng tuổi thọ đă nhứt định, là khi Bồ-tát sanh về cơi trời làm cho ngưng trệ sự tạo pháp Ba-la-mật để độ chúng sanh ở thế gian, ngài bèn nguyện cho tuổi thọ ở cơi trời ấy cho giảm đi để sanh xuống trần gian độ đời, liền khi ấy tuổi thọ giảm bớt và sanh liền xuống cơi thế gian.

4) VISESAJANATTAM: Là một bậc khác thường hơn tất cả chúng sanh khi ở trong bụng mẹ, v́ tất cả chúng sanh khi ở trong bụng mẹ th́ ngồi chồm hổm, hai tay nằm lại đở càm, mặt day vào lưng mẹ, đầu đội đồ mẹ mới ăn vào, ḿnh ngồi trên vật thực cũ dơ dáy gớm ghê, c̣n Bồ-tát th́ ở trong bụng mẹ rất sạch sẽ, mặt day ra phiá trước ngồi xếp bằng như vị pháp sư.

5) TIKÀLANNÙ: Có sự nghi nhớ và biết rơ 3 thời kỳ, khi kiếp chót sẽ thành đạo th́: khi đầu thai vào ḷng mẹ, biết rơ ta đầu thai vào ḷng mẹ, khi ở trong bụng mẹ cũng biết rơ đương ở trong bụng mẹ, lúc sanh ra khỏi ḷng biết rơ đương sanh ra khỏi ḷng. C̣n chư Phật Độc Giác và hai Thượng Thinh văn th́ chỉ biết trong hai thời kỳ, trừ lúc ra khỏi ḷng mẹ th́ không biết, c̣n 80 vị đại A-la-hán th́ chỉ biết có một thời kỳ là lúc vào thai bào mà thôi.

6) PASÙTIKÀLO: Khi sanh ra th́ Phật mẫu đứng sanh. Lúc ấy Bồ-tát xuôi hai tay xuống và tuột ra, cũng như vị pháp sư từ trên pháp tọa đi xuống vậy.

7) MASSUNA JATIYO: sanh ra trong loài người là tất cả chư Bồ-tát khi kiếp cuối cùng sẽ thành Chánh Giác th́ sanh ra làm người, chớ không phải trời hoặc là súc sanh. Nếu sanh làm trời mà thành đạo th́ loài người lại thối thoát kiếm cớ cho là trời mới tu thành Phật được, c̣n nếu sanh làm súc sanh th́ loài người cho thấp hèn hơn ḿnh cũng không chịu tu theo, nên chư Bồ-tát mới sanh ra làm người để độ chư thiên, loài người và súc sanh cũng được. Hơn nữa khi làm người lúc nhập Niết Bàn mới có Xá Lợi lại cho chư thiên và nhân loại lễ bái cúng dường.

7 pháp trên đây là xuất chúng (lạ thường) của chư Bồ-tát đă được thọ kư.

Tất cả chư Bồ-tát đă giải trên đây đều phải thực hành theo 10 pháp Ba-la-mật đúng theo khuôn khổ nhất định của thời kỳ và đă được một vị Phật tổ thọ kư, tiên tri cho biết trước rằng c̣n bao nhiêu năm, tháng, ngày v..v... sẽ thành môt vị Phật tổ, chừng ấy mới gọi là "Thường trụ Bồ-tát" và thế nào cũng đắc quả Chánh Biến Tri "A-nậu-la tam-miệu tam-bồ-đề" không sai vậy.

-oOo-

GIẢI VỀ A-TĂNG-KỲ: ASANKHÀYA

Một hôm có vị Tỳ khưu bạch với Đức Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn, 1 A-tăng-kỳ là bao lâu? Phật giải rằng: Không thể nói là bao nhiêu năm được, chỉ ví dụ cho hiểu thôi.

Theo trong Tam tạng (quyển 32 chương 86): Ví dụ như có 1 khối đá vuông vức 1 do tuần (16 cây số) trong 1 trăm năm có 1 vị Chư thiên xuống, lấy tấm lụa thật mơng quét khối đá ấy, rồi cách một trăm năm sau cũng quét như thế, cho tới khi nào khối đá ấy bằng mặt đất th́ mới gọi là 1 A-tăng-kỳ. Hoặc ví dụ như 1 cái thùng vuông vức 1 do tuần đầy hột cải, trong 1 trăm năm mới có 1 vị Chư thiên tới lấy ra 1 hột, rồi cách 1 trăm năm sau lấy ra 1 hột nữa, lần lượt như thế cho đến khi lấy hết những hột cải trong thùng ấy mới gọi là A-tăng-kỳ.

Hay là viết 1 con số 1 rồi thêm 140 con số không (zéros) nữa cũng gọi là 1 A-tăng-kỳ, đây là A-tăng-kỳ của kiếp trái đất chớ không phải làm năm.

KIẾP (KAPPA): 1 thời gian

Chổ nói kiếp có 4 là : Thành, Trụ, Hoại, Không

1) Bắt đầu từ khi quả địa cầu cấu tạo đầu tiên như bọt nước rồi dần dần đặc lại như bột và cứng như đất thật lâu, không thể kể là bao nhiêu năm tháng nhưng chưa có ai ở (sanh) trên mặt địa cầu gọi là kiếp Thành.

2) Bắt đầu từ khi có 1 người đầu tiên sanh vào quả địa cầu cho tới khi người ta sanh ra vô số như hiện nay gọi là kiếp Trụ.

3) Bắt đầu từ khi trên mặt địa cầu không c̣n ai ở (sanh) nữa cho tới khi nước bể cả khô khan v́ sức nóng của ánh thái dương rồi cháy luôn quả địa cầu đi gọi là kiếp Hoại.

4) Bắt đầu từ khi quả địa cầu đă tiêu hoại chỉ c̣n khí hư, u u, minh minh, không không vô cùng vô tận tạo nên quả địa cầu khác gọi là kiếp Không.

4 kiếp kể trên đây nhập lại thành 1 đại kiếp, mà chư Bồ-tát phải thực hành pháp Ba-la-mật cho đúng thời kỳ nhất định của những đại kiếp ấy.

-ooOoo-

NGUYÊN NHÂN CỦA SỰ GIẢI THÍCH VỀ CHÁNH GIÁC TÔNG

Một hôm đại đức Xá Lợi Phất ở trên núi Kỳ xà quất (GIJJHAKUTA) tại xứ Vương Xá (RAJÀGAHA) cùng 560 vị Tỳ khưu đều là bậc A-la-hán cả, thấy Đức Phật đang dùng phép thần thông hoá đường đi kinh hành bằng ngọc trên hư không gần thành Xá Vệ (KAPILAVASSU), trong người Phật phóng hào quang 6 màu sáng ngời rực rỡ, có cả Chư thiên và Phạm thiên trong 10 ngàn thế giới ta bà đang chầu chực tại chổ Đức Phật đi kinh hành.

Đại đức Xá Lợi Phất nghĩ rằng: Đức Phật vô cùng oai hùng và cao thượng hơn tất cả Chư thiên và Phạm Thiên, không biết oai lực quư báu của chư Phật quá khứ ra sao? Ông bèn mời 500 vị A-la-hán cùng đi với ông đến xin Đức Phật giảng giải cho biết oai lực của chư Phật quá khứ, liền khi ấy 500 vị A-la-hán cùng ông dùng thần thông bay tới chổ Đức Phật đi kinh hành và bạch với Đức Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn, xin ngài mở ḷng bác ái giảng giải về oai lực của chư Phật quá khứ để đem lại đức tin và sự lợi ích cho tất cả Chư thiên và nhân loại... Tùy lời hỏi, Đức Thế Tôn bèn giảng như sau:

28 VỊ PHẬT QUÁ KHỨ

Đức Phật giảng rằng: Nầy Xá Lợi Phất! Trong một thời gian quá khứ, trải qua 1 A-tăng-kỳ kiếp không có Đức Phật nào ra đời tế độ sanh linh, môt hôm có 1 ngưới lái thuyền tên MÀTUDÀRA MÀNAVA bị thuyền đắm giũa bể khơi, y rán sức cơng mẹ trên lưng lội dưới bể trong 7 ngày, mặc dầu mệt nhọc vô cùng, vẫn can đảm hy sinh v́ mẹ, làm cảm động một vị Đại phạm thiên. Ngài bèn xuôi khiến cho người lái thuyền phát tâm trong sạch nguyện thành môt bực Chánh Giác để độ chúng sanh thoát khỏi sông mê bể khổ. Từ đó người lái thuyền trở thành 1 vị Bồ-tát, để tập sự nguyện trong tâm trọn 7 A-tăng-kỳ rồi phát nguyện bằng lời nói, tu tập thêm 9 A-tăng-kỳ cho tới khi gặp Đức Phật Nhiên Đăng (DIPANKÀRA) thọ kư và tiên tri cho biết rằng c̣n 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp quả địa cầu nữa sẽ thành một vị Chánh Đảng Chánh Giác tên GOTAMA. Đức Bồ-tát trên đây là tiềân thân Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mà chúng ta đang học và hành theo giáo lư của ngài vậy.

CHUYỆN BỒ-TÁT THÍ SINH MẠNG

Có 1 kiếp Bồ-tát tu làm đạo sĩ, cùng 500 học tṛ ẩn tu nơi rừng núi. Một hôm ngài ra mé núi thấy dưới hố sâu có con cọp mẹ gầy ốm, đương dợm ăn cho con đỏ đói. Vị đạo sĩ thấy vậy động ḷng thương xót, liền kiếm cớ biểu học tṛ về, rồi ngài gieo ḿnh xuống hố, thí thân cho cọp mẹ ăn. Khi người học tṛ lớn trở lại kiếm, biết thần ḿnh đă bố thí thân mạng cho cọp ăn, cũng nhảy theo xuống hố làm mồi cho cọp. Người học tṛ ấy tức là Đức Phật Di Lặc trong ngày vị lai.

Cách đây độ 20 A-tăng-kỳ, có 1 người em gái của Đức Phật PURÀNA DIPANKÀRA, có ḷng trong sạch đem dầu cúng dường Phật, rồi nguyện thành 1 vị Chánh giác và xin Phật thọ kư cho. Phật giải rằng: v́ em là phụ nữ nên không thể nguyện thành Phật được, chờ 16 A-tăng-kỳ nữa em sẽ thành đàn ông rồi chừng ấy sẽ có Phật thọ kư cho.

Nhân đó Đức Phật mới giảng cho các thầy Tỳ khưu nghe 4 điều khó là:

1- Khó sanh được làm người.
2- Phụ nữ khó sanh làm nam nhân.
3- Làm nam nhân khó được xuất gia.
4- Khó gặp Phật ra đời.

Khó gặp Đức Phật ra đời, v́ muốn nguyện thành 1 vị Phật phải có sự can đảm đại hùng đại lực, ví dụ như, những lưỡi gươm bén để đầy đặt trên mặt địa cầu, hoặc ví như mănh sắt thật bén dựng chật cả địa cầu, hoặc như những khúc sắt cháy đỏ đầy trên địa cầu, người có đủ can đảm sấn ḿnh hoặc chạy vào cho tới trung tâm quả địa cầu, hoặc dám lóc thịt bố thí cho Dạ xoa để đầy những quả địa cầu, hoặc cắt đầu ḿnh mà bố thí nhiều hơn những cục đá trong trái núi, hoặc khoé mắt ḿnh bố thí nhiều hơn sao trên trời, và phải hành theo pháp Thập độ cho đúng theo thời hạn nhất định th́ mới mong thành 1 vị Phật Tổ được.

C̣n phụ nữ khó sanh làm nam nhân, v́ phải có nhiều duyên lành phước báu mới có thể sanh làm đàn ông được, phụ nữ không thể nào nguyện thành 1 vị Chánh Đẳng Chánh Giác, Độc giác Phật, hoặc là Chuyển Luân Vương Bồ-tát được. Phụ nữ muốn sanh làm nam nhân phải rán tu hành tinh tấn, thọ tŕ ngụ giới, bát quan trai giới hoặc xuất gia trọn đời xa lánh t́nh dục, ǵn vẹn trinh tiết, rồi nguyện cho thành nam giới.

Khó sanh làm người, v́ phải tạo nhiều phước báu cao thượng, mà chúng sanh lại ưa làm tội hơn làm phước, bởi tội dễ làm hơn phước. Trong kinh có câu: Vạn kiếp nan sanh đắc cá nhân - Muôn kiếp khó sanh được làm người.

Khi được phước lành cấu tạo sanh ra đàn ông th́ lại quên căn lành, say đắm theo ngũ trần lục dục, quyến luyến theo vợ con gia đ́nh nên khó mà ly gia cắt ái để xuất gia tu hành cho được.

-oOo-

CÁC VỊ PHẬT THỜI QUÁ KHỨ

Đức Thích Ca Mâu Ni giảng giải cho Đại đức Xá Lợi Phất rằng: cách đây 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp có 4 Đức Phật tổ nối tiếp ra đời trong quả địa cầu. Vị Phật thứ nhất là TANHANKARA, ngài tu 16 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp, đắc đạo dưới gốc cây bông sứ, sau 7 ngày hành đạo, tuổi thọ 10 muôn năm.

Vị Phật tổ thứ 2 tên MEDHANKARA, tu 8 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp, hành đạo trong nữa tháng đắc đạo quả, dưới cây Vông đồng, tuổi thọ 9 muôn năm.

Vị Phật tổ thứ 3 tên SARANANKARA, tu 8 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp, hành đạo trong 1 tháng, đắc đạo quả, dưới cây cẩm lai. Tuổi thọ lúc ngài c̣n ở thế gian là 7 ngàn năm, tuổi thiệt không rơ là bao nhiêu v́ trong kinh không thất nói tới.

Bồ-tát tiền thân Phật tổ Thích Ca sanh ra đều có gặp 3 vị Phật tổ trên đây, nhưng chưa được lời tiên tri của vị nào thọ kư cho.

-oOo-

Vị Phật tổ thứ 4 tên DIPANKÀRA ra đời, tại xứ RAMMAVAT̀, cha ngài tên ATISARASUDEVA, mẹ tên SUMEDHÀ, vợ tên PADUMÀ, con trai tên USABHAKHANDHA, lúc c̣n ở thế có 3 muôn cô hầu.

Một hôm đi dạo ngoài thành thị thấy 4 điềm là: người bịnh, già, chết và người tu rồi chán nản xuất gia hành đạo trong 7 ngày, đắc đạo dưới cây sơn, tuổi thọ 10 muôn nam, 40 muôn Thinh Văn đệ tử của ngài đều đắc lục thông, luôn luôn theo hầu ngài.

Đại đức SUMANGALA là Thượng thinh văn phía mặt, Đại đức MAHATISSA là Thượng thinh văn phía trái. Tỳ khư ni NANDÀ là nữ Thượng thinh văn bên mặt. Tỳ khưu ni SUNANDÀ là nữ Thượng thinh văn bên trái. Đại đức SAGATA là đệ tử hầu hạ luôn theo Phật. Có hai đại thiện nam là TAPUSSA và BHALLIKA, và hai đại tín nữ là SIRIMÀ và SONÀ. Phật cao 40 thước tây (80 hắc tay), có 32 tướng tốt và 80 tướng phụ. Ngài độ Chư thiên và nhân loại đắc đạo quả Niết Bàn vô số kể.

Khi đúng tuổi thọ, ngài nhập Niết Bàn tại chùa NANDÀRÀMA. Người ta làm một bảo tháp cao 36 do tuần để thờ xá lợi ngài, và một bảo tháp nữa thờ 8 món cần thiết của ngài như : 3 lá y, 1 bát, 1 sợi dây lưng, 1 b́nh lọc nước, 1 con dao nhỏ để cạo tóc hoặc cắt móng tay, và 1 ống đựng kim tại cây sơn chổ ngài thành đạo.

Ngài thuộc ḍng vua, tu 16 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất.

Sau khi nhập diệt rồi, giáo pháp ngài lưu truyền được 100.000 năm. Bảo tọa chỗ ngài thành đạo bề cao 26 thước (53 hắc tay).

Thuở ấy đức Bồ-tát SUMEDHÀ, tiền thân của Phật Thích Ca, sanh làm con của một đại phú bà-la-môn. Khi cha mẹ qua đời, Bồ-tát thừa hưởng một gia tài tích trữ 7 đời. Thấy của cải vô số, Bồ-tát bèn suy nghĩ: "Ông bà, cha mẹ ta dày công lập ra một sự nghiệp đồ sộ, mà khi lâm chung chẳng một ai đem theo một đồng một cắt nào, của thế đành để lại cho thế gian. Ta đây cũng vậy, một ngày kia rồi cũng chết để lại của cải này. Rất uổng công t́m kiếm miên trường, thà đem của cải này làm việc phước thiện gieo trồng âm đức cho kiếp vị lai". Nghĩ xong, bèn vào tâu vua, xin đem hết tài sản ra bố thí cho người nghèo khó, rồi xuất gia vào non tuyết lănh cố công tu hành, không bao lâu đắc được các cơi thiền luôn cả các pháp.

Khi Phật Nhiên Đăng (DIPANKARA) ra đời, và thừa dịp dân chúng trong xứ RAMMAVATI sửa sang đường xá để thỉnh Đức Phật và 40 muôn tăng chúng quang lâm đến chùa SUDASSANA MAHÀVIHÀRA dự lễ trai tăng, đức Bồ-tát bay đến xin lănh một phần công việc. Biết Bồ-tát có nhiều thần thông dân chúng bèn lựa những chổ khó khăn, hư hỏng đầy những bùn lầy, đạo sĩ vẫn vui ḷng lănh lấy v́ nghĩ rằng nếu ta dùng thần thông mà làm công việc th́ không mấy ǵ được phước nhiều, vậy ta nên dùng sức lực mới có công đức nhiều hơn. Nghĩ xong Bồ-tát bèn ra công lấp đường, cặm cụi làm măi, đến giờ Đức Phật và chư tăng ngự tới th́ c̣n một khoảng chưa xong. Trong thấy 32 tướng tốt và 80 phụ tướng, hào quang sáng rỡ của Đức Phật, Bồ-tát bèn phát tâm trong sạch nghĩ rằng: lúc này là lúc ta nên bố thí mạng sống ta cho Đức Phật và chư tăng. Nghĩ rồi liền nằm chổ khoảng đường làm chưa xong và bạch với đức Phật xin bố thí thân mạng cho ngài và Chư tăng đi trên ḿnh và nguyện thành 1 vị Phật tổ trong ngày vị lai để tế độ chúng sanh qua khỏi sông mê bể khổ.

Lúc ấy Đức Phật DIPANKÀRA ngự tới đứng trước đầu đạo sĩ SUMEDHA, thọ kư và tiên tri cho rằng, vị đạo sĩ nguyện bố thí thân cho Như Lai đây, sau này trong 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp nữa sẽ thành một vị Phật tổ tên là GOTAMA, tại xứ Ca b́ la vệ (Kapilavattu) cha tên SUDHODANA, mẹ tên MAYA,v.v... sẽ hành đạo trong 6 năm mới thành chánh quả dưới cội cây bồ đề. Khi Bồ-tát được nghe lời thọ kư của Đức Phật Nhiên Đăng, ngài bèn lấy 8 cành hoa cúng cúng dường cùng chư tăng đi chung quanh ḿnh Bồ-tát, chư thiên cùng dân chúng cũng cúng dường rất long trọng.

Sau khi Đức Phật DIPANKÀRA nhập diệt rồi, một thời gian 1 A-tăng-kỳ đại kiếp không có Đức Phật nào ra đời.

-oOo-

Kế đó Đức Phật KONDANNA đă tu 16 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp, giáng sanh tại xứ RAMMAVATI, cha tên SUNANDA mẹ tên SUJÀTÀ, gịng vua, khi ngài cuất gia đi bằng xe có cả trăm triệu đ̣ng xuất gia đi theo ngài hành đạo trong 10 tháng đắc đạo dưới gốc cây thị bảo tọa bề cao 26 thước, tuổi thọ 10 muôn năm, bề cao Phật 44 thước.

Đại đức ANURUDDHA là đệ tử hầu hạ bên cạnh Đức Phật, đại đức BHADDA và đại đức SUBHADDA là Thượng thinh văn, tỳ khưu ni TISSÀ và UPATISSÀ là Thượng thinh văn phái nữ.

Trong thời kỳ ấy đức Bồ-tát, tiền thân Phật tổ Thích Ca sanh làm chuyển luân vương tên là VIJITÀV̀, xuất của cải ra thật nhiều cúng dường đến Đức Phật và chư Tăng, Đức Phật bèn tiên tri cho biết rằng, c̣n 3 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp nữa, Bồ-tát sẽ thành 1 vị Phật tên là GOTAMA. Khi đúng tuổi thọ Đức Phật KODANNA nhập Niết bàn, giáo pháp ngài lưu truyền 10 muôn năm mới măn.

Sau khi Đức Phật KODANNA nhập diệt rồi th́ trong thời gian 1 A-tăng-kỳ kiếp không có Đức Phật nào ra đời cả.

-oOo-

Sau thời kỳ đó có 4 vị Phật tổ, lần lượt ra đời trên một trong quả 3 địa cầu.

Vị thứ nhất tên SUMANGALA, ngài tu 16 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp, cha tên là UTTARARÀJA, mẹ tên UTTARÀ. Khi từ cung trời Đâu xuất đầu thai vào ḷng mẹ th́ hào quang chiếu sáng cả ngày và đêm lối 5 thước chung quanh ḿnh Phật mẫu luôn luôn. Từ khi vào thai bào, th́ chư thiên luôn luôn ǵn giử cho đúng 10 tháng tới khi sanh. Lớn lên có 9 ngàn cung phi mỹ nử hầu hạ. Ngài ở thế làm vui 9 ngàn năm rồi mới xuất gia, lúc ra đi cởi ngựa có cả 30 triệu người xuất gia theo. Ngài hành đạo trong 8 tháng đắc quả dưới cây mù u, bảo tọa ngài ngồi bề cao 29 thước. Hào quang trong ḿnh Đức Phật phóng ra luôn luôn sáng cả ngày lẫn đêm tới 10 ngàn thế giới sa bà đều vàng ánh. Ngài bề cao 40 thước, tuổi thọ chín muôn năm.

Đức Bồ-tát kiếp ấy sanh làm bà-la-môn đại phú tên là SURUCI phát tâm trong sạch thỉnh Đức Phật và 1 trăm ngàn triệu Chư tăng, trai tăng trong 7 ngày, cất rạp lớn 16 do tuần vuông vức. Sau 7 ngày rồi, Đức Phật SUMANGALA tiên tri rằng c̣n 2 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp nữa người sẽ thành một vị Phật tổ tên là GOTAMA.

Khi Bồ-tát nghe được lời thọ kư của Đức Phật rất vui mừng, rồi xin xuất gia tu hành theo Phật. khi đúng tuổi thọ Đức Phật nhập Niết Bàn, người ta thiêu xác ngài rồi làm một bảo tháp cao 30 do tuần để thờ xá lợi ngài, giáo pháp ngài hưng thạnh đến 9 muôn năm mới măn.

-oOo-

Phật tổ thứ nh́ tên SUMANA giáng sanh tại xứ MEKHATA, cha tên SUDATTA, mẹ tên SIRIMÀ, ngài xuất gia đi bằng tượng có 300 triệu người xuất gia theo, hành đạo trong 10 tháng th́ đắc quả, thành đạo dưới cây mù u, bảo tọa ngài ngồi cao 15 thước, chư Tăng luôn luôn 8 muôn triệu theo tùy tùng tuổi thọ 9 muôn năm, bề cao 45 thước.

Lúc ấy Bồ-tát sanh làm Long vương tên là ATULANÀGA có thần thông quảng đại, dẫn hết cả tùy tùng ḿnh lên làm lễ Phật và Chư tăng xong rồi xin dâng y thần cho Phật và Chư tăng. Đức Phật tiên tri cho biết rằngc̣n 2 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp nữa sẽ thành một vĩ Phật tổ tên là GOTAMA.

Khi đúng tuổi thọ th́ Đức Phật SUMANA nhập Niết Bàn tại chùa ANGÀRÀMA, người ta thiêu xác ngài rồi làm một bảo tháp cao 4 do tuần để thờ xá lợi ngài, sau khi nhập diệt rồi, giáo pháp ngài được hưng thạnh đến 9 muôn năm.

-oOo-

Phật tổ thứ 3 tên REVATA giáng sanh tại xứ SUDHANNAVATI, cha tên VIPULA, mẹ tên VIPULAYA. Lúc c̣n Bồ-tát có tới 33 ngàn mỹ nữ hầu hạ, ngài hưởng ngôi vui 6 ngàn năm. Thấy 4 điềm rồi xuất gia, lúc xuất gia đi bằng xe giá, có 10 muôn triệu người đồng xuất gia theo ngài, hành đạo 7 tháng, đắc đạo dưới cây mù u, bảo tọa ngài ngồi bề cao 25 thước, tuổi thọ 6 muôn năm, bề cao ngài 40 thước.

Lúc ấy Bồ-tát sanh vào ḍng bà-la-môn tên ATIDEVA, khi vào nghe pháp, phát tâm trong sạch quy y và thọ tŕ ngũ giới rồi dâng y cho Phật.

Đức Phật tiên tri cho biết rằng, c̣n 2 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp nữa sẽ thành 1 vị Phật tổ tên là GOTAMA. Khi đúng tuổi thọ Đức Phật REVATA nhập Niết Bàn c̣n để lại giáo pháp tới 6 muôn năm mới măn.

-oOo-

Đức Phật thứ tư tên SOBHITA giánh sanh tại xứ SUDHAMMAø, cha tên DHAMMAJÀTAø, mẹ tên SUDHAMMÀ, ngài hành pháp Ba-la-mật đă được 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp. Lúc c̣n thái tử có 7 muôn cung phi mỹ nữ hầu hạ. Khi thấy 4 điềm rồi mới chán năn xuất gia, hành đạo trong 7 ngày rồi đắc đạo dưới cội cây bồ đề.

Lúc ngài xuất gia, nguyện cho đền đài đều bay theo ngài, tới gốc cây bồ đề rồi hạ xuống, Đức Phật khi đắc đạo cũng ở trong đền ấy. Hào quang trong ḿnh Phật chiếu sáng răi ra khắp nơi tuổi thọ 9 muôn năm, bề cao 29 thước.

Lúc ấy Bồ-tát sanh ra trong ḍng bà-la-môn tên SUJÀTA, vào nghe pháp rồi quy y giữ giới và bố thí, trai tăng cho Đức Phật và chư tăng 7 ngày, Đức Phật tiên tri cho biết rằng, c̣n 2 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp th́ người sẽ thành 1 vị Phật tổ. Khi đúng tuổi thọ rồi Đức Phật SOBHITA nhập Niết Bàn tại chùa SIHÀRÀMA giáo pháp ngài không có để lại.

Sau khi Đức Phật SOBHITA rồi cách một thời gian sau 1 A-tăng-kỳ đại kiếp không có vị Phật tổ nào giáng sanh độ thế.

-oOo-

Sau đó trên một quả địa cầu khác có 3 vị Phật ra đời là: ANOMADASS̀, PADUMA, NÀRADA.

Vị thứ nhất tên ANOMADASS̀, tu trong 16 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp. Ngài giáng sanh tại xứ CANDAVAT̀, cha tên YASAVÀ, mẹ tên YASODHARÀ. Trong lúc giáng sanh vào ḷng mẹ th́ hào quang phóng ra 40 thước chung quanh ḿnh hoàng hậu vô số kể. Khi lớn lên làm vua có 23 ngàn cung phi mỹ nữ hầu hạ. Khi đi dạo vườn hoa thấy 4 điềm rồi xuất gia, có 30 triệu người đồng lượt xuất gia theo ngài, hành đạo trong 10 tháng mới đắc đạo dưới gốc cây g̣n rừng, bảo tọa cao 19 thước, tuổi thọ 10 muôn năm, bề cao ngài 29 thước.

Thuởû ấy Bồ-tát sanh làm chúa Dạ xoa (YAKKHA) có 10 ngàn Dạ xoa khác tùy tùng hầu hạ. Nghe Đức Phật ra đời bèn trong sạch hoá thần thông thành ra đền đài bằng 7 thứ ngọc, rồi thỉnh Phật và chư Tăng cúng dường trong 7 ngày. Đức Phật tiên tri rằng c̣n 1 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp nữa th́ người sẽ thành 1 vị Phật tổ tên là GOTAMA.

Đức Phật ANOMADASS̀ hào quang luôn luôn phóng ra chung quanh ḿnh Phật 12 do tuần cả ngày và đêm. Khi đúng tuổi thọ Đức Phật nhập Niết Bàn, xá lợi ngài không có bể nhỏ ra mà c̣n dính nguyên nhau như tượng h́nh Đức Phật bằng vàng vậy, người ta tạo một bảo tháp cẩn bằng 7 thứ ngọc bề cao 25 do tuần để thờ xá lợi ngài tại BUDDHÀRÀMA.

-oOo-

Đức Phật thứ nh́ tên PADUMA, giáng sanh tại xứ CAMAPAKA, cha tên ASAMA, mẹ tên ASAMÀDEV̀. Khi lớn lên làm vua có 33 ngàn cung phi mỹ nữ hầu hạ. Khi ngài thấy 4 điềm rồi xuất gia, lúc đi bằng xe giá có 10 triệu người xuất gia theo, hành đạo trong 8 tháng th́ đắc quả dưới gốc cây mă tiền, bề cao bảo tọa 19 thước, hào quang của Phật luôn luôn phóng ra lối 29 thước sáng ngời như ngọc cho tới khi ngài nhập diệt.

Thuở ấy Bồ-tát sanh làm chúa sư tử gặp Đức Phật nhập đại định phát tâm trong sạch đứng hầu Phật trong 7 ngày đêm nhịn ăn uống. Khi xả định, Phật tiên tri với chư tăng rằng. Con sư tử hầu này c̣n 1 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp nữa sẽ thành 1 vị Phật tổ tên GOTAMA.

Khi đúng tuổi thọ rồi ngài nhập Niết Bàn và nguyện cho xá lợi tiêu tan ra tro bụi hết nên không có tạo tháp để thờ và cụng không để giáo pháp lại.

-oOo-

Đức Phật thứ 3 tên NÀRADA, tu 10 pháp Ba-la-mật trong 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp giáng sanh tại xứ DHANNAVAT̀, cha tên V̀JITAVÀ làm chuyển luân vương, mẹ tên ANOMA. Khi chưa thành đạo ngài làm vua 9 ngàn năm, có 120 cung phi mỹ nữ hầu hạ, khi ngài thấy 4 điềm rồi xuất gia, lúc ra đi có cả quân binh 4 hạng tuỳ tùng, ngài hành đạo trong 7 ngày, đắc đạo dưới cây Gáo, bảo tọa cao 29 thước, tuổi thọ 9 muôn năm, bề cao ngài 29 thước. Hào quang ngài phóng ra luôn luôn 1 do tuần cả ngày đêm chung quanh Phật.

Thuởû ấy Bồ-tát tu hạnh đạo sĩ nơi tuyết lănh sơn (Hy mă lạp sơn), Đức Phật ngự đến, đạo sĩ bèn hoá thần thông cho tịnh xá rộng lớn đủ chổ thỉnh Phật và chư Tăng làm phước trai tăng 7 ngày đêm (ngài hay qua xứ Bắc Cừu-lưu Châu đem vật thực về) khi đúng 7 ngày rồi, Bồ-tát nghe pháp xong dâng trầm hương cho Đức Phật.

Đức Phật tiên tri cho biết rằng, c̣n 1 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp nữa th́ người sẽ thành 1 vị Phật tổ tên là GOTAMA.

Khi đúng tuổi thọ 9 muôn năm ngài nhập đại Niết Bàn tại chùa SUDASANÀRÀMA, người ta tạo 1 bảo tháp bề cao bằng 4 lằn chim bay để thờ xá lợi ngài, giáo pháp ngài lưu truyền đến 9 muôn năm.

Khi Đức Phật NÀRADA nhập diệt rồi, cách môt thời gian 1 A-tăng-kỳ kiếp không có Đức Phật nào ra đời.

-oOo-

Kế sau đó 1 quả địa cầu chỉ có 1 vị Phật tổ tên PADUMUTTARA giáng sanh tại xứ HAMSAVÀT̀, cha tên ANANDA, mẹ tên SUJÀTÀ, khi lớn lên c̣n ở thế gian 9 ngàn năm có 10 muôn cung phi mỹ nữ hầu hạ, khi thấy 4 điềm rồi th́ chán nản, suy nghĩ để xuất gia. Lúc ấy đền đài ngài đang ngự bổng bay lên không trung, khi tới cây bồ đề hạ xuống ngài bèn xuất gia nơi ấy, ngài hành đạo 49 ngày, thành đạo dước gốc cây dương, bảo tọa cao 19 thước. Mỗi khi Đức Phật ngự đi đâu đều có bông sen mọc lên đỏ bàn chân ngài, nên người gọi ngài là Đức Phật hoa sen (Bửu liên Phật).

Thuởû ấy Bồ-tát sanh làm bá hộ JATILA, thỉnh Phật và Chư tăng thọ thực dâng y cho Phật và chư tăng, nghe Đức Phật thuyết pháp, khi dứt thời pháp Đức Phật tiên tri cho biết rằng: c̣n 100 ngàn đại kiếp nữa sẽ thành 1 vị Phật tổ tên GOTAMA.

Khi đúng tuổi thọ Đức Phật PADUMUTTARA nhập Niết Bàn tại chùa NANDÀRÀMA, xá lợi ngài không bể rời ra mà đóng lại thành khối như vàng ṛng, người ta tạo một bảo tháp bằng 7 thứ báu cao 12 do tuần để thờ xá lợi ngài.

Sau khi Đức Phật PADUMUTTARA nhập Niết Bàn rồi th́ một thời gian 7 muôn đại kiếp không có Đức Phật nào ra đời.

-oOo-

Kế đó có 1 quả địa cầu có 2 vị Phật tổ ra đời. Vị thứ nhất tên là SUMEDHA giáng sanh tại xứ SUDASSANA, cha tên SUDASSARÀJA, mẹ tên SUDATTÀ, khi c̣n ở thế 9 ngàn năm làm vua trị v́ thiên hạ, có 4 muôn 8 ngàn cung phi mỹ nữ hầu ha. Khi ngài thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, lúc ra đi bằng tượng (voi) có cả 1000 triệu người đồng ḷng xuất gia 1 lượt. Ngài hành đạo trong 8 tháng, khi đúng rằm tháng tư ngài thành đạo dước gốc cây sầu đông, tuổi thọ 9 muôn năm, bề cao 44 thước hào quang trong người Phật phóng ra lối 1 do tuần luôn luôn cả ngày đêm như ngọc ma ny.

Thuởû ấy Bồ-tát sanh làm người đại phú hộ tên là UTTARA gặp Phật nghe pháp rồi phát tâm trong sạch bố thí của cải 800 triệu để làm phước trai tăng đến Đức Phật và Chư tăng. Phật thọ kư cho biết rằng c̣n ba muôn đại kiếp nữa sẽ thành 1 vị Phật tổ tên là GOTAMA.

Khi đúng tuổi thọ ngài nhập Niết Bàn tại chùa MEDHÀRÀMA, ngài nguyện cho xá lợi tiêu tan hết, nên không có tạo bảo tháp để thờ.

-oOo-

Vị Phật thứ nh́ tên SUJÀTA, giáng sanh tại SUMANGALA. Cha tên UGGATTA, mẹ tên PABHÀVAT̀. Khi c̣n ở thế gian 9 ngàn năm, làm vua có cả 23 ngàn cung phi mỹ nữ hầu hạ, khi ngài thấy 4 điềm rồi xuất gia. Lúc đi ra bằng ngựa có cả 10 triệu người xuất gia theo 1 lượt với ngài, hành đạo trong 9 tháng đắc đạo duớc bụi tre ngà, bảo tọa bề cao 16 thước, tuổi thọ 9 muôn năm, bề cao ngài 25 thước.

Thửơ ất Bồ-tát sanh làm Chuyển luân vương có 7 báu, nghe Đức Phật ra đời trong sạch đến nghe pháp, khi nghe xong liền dâng cả 7 báu và của cải để làm tứ vật dụng cho Đức Phật và Chu Tăng, rồi xuất gia tu hành theo Phật. Đức Phật tiên tri cho biết rằng: c̣n 3 muôn đại kiếp nữa sẽ thành 1 vị Phật tổ tên GOTAMA.

Khi đúng tuổi thọ Đức Phật nhập Niết Bàn tại chùa SELÀRÀMA, người ta tạo 1 bảo trháp bề cao 12 cây số để thờ xá lợi ngài.

Sau khi Đức Phật SUJÀTA nhập diệt rồi, có 1 thời không gian 1 muôn 6 ngàn đại kiếp không có Đức Phật nào ra đời.

-oOo-

 

CHƯ PHẬT VỊ LAI CÓ MƯỜI VỊ

Nguyên nhân Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết về 10 vị Phật tổ giáng sanh trong ngày vị lai là: một hôm bà GOTAMI là dưỡng mẫu của Đức Phật, chính là em ruột của hoàng hậu MAHÀ MAYÀ, tự tay bà quay chỉ dệt, may và nhuộm lấy 2 tấm y cà sa thật quư định đem dâng cho Đức Phật. Ngài chỉ lănh lấy 1 lá y, c̣n 1 lá y ngài bèn bảo đem dâng cho Chư tăng, bà đem dâng từ vị đại đức cho tới chót không ai dám nhận v́ nghĩ rằng: nếu không ai dám lănh th́ bà sẽ đem dâng lại cho Đức Phật, khi tới sau cùng có 1 vị tỳ khưu mới tu, ông thọ lănh tấm y và tính đem dâng lại cho Đức Phật, các vị c̣n phàm có ư khi dễ v́ cho rằng người không đức tin th́ và không tôn kính.

Bà GOTAM̀ có ư buồn v́ dâng cho vị mới tu, sợï ḿnh ít phước. Đức Phật hiểu ư bèn giảng giải rằng: "Ai có ḷng trong sạch dâng cúng đến chư Tăng thập phương th́ sẽ được nhiều phước báu hơn dâng đến Như Lai".

Khi xong lễ, vị tỳ khưu ấy tên là ÀSAJJ̀ bèn đem tấm y ấy vào nơi Phật ngự mà dâng cho ngài, và nguyện cho thành 1 vị Phật tổ trong ngày vị lai. Đức Phật cười chúm chiếm, lúc ấy 2 cái răng nhọc túa hạ quang thấu đến cung trời Phạm thiên, 2 cái ở hàm trên thấu xuống tới cơi địa ngục A tỳ. Đại đức ANANDA thấy vậy bèn quỳ xuống bạch Phật rằng: "Có điều chi lạ mà Đức Thế Tôn cười rơ rệt?" (v́ chư Phật không bao giờ cười mà không có nguyên nhân), Phật bèn đáp rằng: - Này ANANDA. tỳ khưu ASAJJ̀ đây sau này sẽ thành 1 vị Chánh Đẳng chánh giác kế vị Như Lai tên là Di Lặc Phật (METTAYYA). Đức Phật chỉ nói tóm tắt có bao nhiêu rồi vào tịnh thất yên nghỉ.

Lúc ấy chư Tăng đang tụ hội tại giảng đường bàn bàn luận luận với nhau, không biết chư Phật tổ vị lai oai lực và giáo pháp như thế nào. Những lời bàn luận ấy lọt vào nhĩ thông Đức Phật, ngài bèn ra ngự nơi giảng đường, lúc ấy đại đức Xá Lợi Phất bèn quỳ xuống bạch Phật rằng: xin ngài mở ḷng bác ái giảng giải cho biết oai lực và giáo pháp của Phật vị lai. Nhân đó mà Đức Phật mới giảng giải về 10 vị Phật vị lai.

-oOo-

Đức Phật bèn giảng rằng: Này Xá Lợi Phất, sau khi Như Lai nhập diệt rồi th́ có 5 điều tiêu hoại là:

1 - ADHIGAMA ANTARADHÀNA: là tiêu hoại đạo quả. Đúng 1 ngàn năm sau khi Như Lai nhập diệt th́ không c̣n có ai đắc đạo quả A-la-hán, luôn cả lục thông và huệ phân tích thuộc nằm ḷng Tam tạng nữa.

2 - PARIYATTI ANTARADHÀNA: là tiêu hoại về pháp học, là khi đúng 2 ngàn năm không có ai thuộc nằm ḷng Tam tạng và mất lần lần và bắt đầu mất tạng Luận, Kinh rồi mới tới Luật (v́ Luật mà mất th́ đạo cũng không c̣n, v́ Luật là nền tảng của Phật giáo - VINAYO SÀSANAMULAM). Thật vậy, hiện nay ít có ai chú trọng mà học cho nằm ḷng tạng Luận v́ khó nhớ và lư luận sâu xa lắm.

3 - PÀTIPATTI ANTARADHÀNA: mất pháp hành, v́ khi đúng 3 ngàn năm th́ ít ai mến pháp hành, v́ thực hành theo là 1 điều khó, mà thật vậy, hiện nay Phật pháp mới qua gần 2498 năm mà rất ít nhà sư ưa mến sự hành đạo giải thoát.

4 - LINGA ANTARADHÀNA: mất tăng tướng, khi đúng 4 ngàn năm th́ chư Tăng lúc bấy giờ như người thế, v́ hội nhau lại bàn rằng, mặc y xùng x́nh khó bề làm công việc rồi đồng ḷng bỏ y cà-sa, chỉ mặc quần áo như kẻ thế mà lấy một miếng vải vàng (ca-sa) cột vào cổ tay hoặc vắt trên vai, hoặc dắt mép tai cho biết người tu thôi, v́ bận việc làm ruộng rẫy bán buôn như người thế tục. Trong lúc ấy có ít người tu đi hóa trai (tŕ b́nh khuất thực), chỉ lấy hai cái quảo (thúng nhỏ lớn hơn cái ô) thoa dầu chai, đề lên 2 cái giống, quảy đi khuất thực như người gánh đồ đi bán (Tam tạng, quyển 28 trang 226).

5 - DHÀTU ANTARADHÀNA: là tiêu hoại xá lợi, hiện nay xá lợi răi rác khắp nơi cho chư Thiên và nhân loại chiêm bái, khi đúng 5 ngàn năm th́ tất cả những xá lợi ấy bay về đóng thành khối, hoá thành 1 vị Phật tại Bồ Đề Đạo Tràng (BUDDHAGAYA) tại Trung Ấn Độ, thuyết pháp độ chúng sanh đắc thành đạo quả vô số kể trong 7 ngày rồi lửa tự nhiên trong kim thân phát cháy tiêu Xá lợi. Kể từ ấy, giáo pháp ngài hoàn toàn tiêu diệt.

Sau khi măn thời kỳ Phật pháp rồi, tâm chúng sanh không phân biệt tội phước chi cả, lần lần hung dữ độc ác, tuổi thọ lại giảm lần lần xuống cho đến khi 10 tuổi hoặc ít hơn chút ít. Như hiện nay ai biết lo tu hành, đức hạnh hiền từ, th́ người ta khen ngợi, trái lại lúc ấy chúng sanh ai hung dữ độc ác, bất lương th́ người lại khen (mà ác th́ dễ làm hơn thiện) nên con người càng ngày càng hung dữ, nh́n nhau như các loài thú dữ muốn cắn nhiều xé ăn thịt nhau. Lúc ấy sanh lên một trận tàn sát lẩn nhau (SATTHANTARA KAPPA - Tam tạng quyển 18, chư Thiên, trang 148), thây chết đầy đặc trên quả địa cầu, chỉ c̣n lại ít người lương thiện không ưa thích sự sát hại, chạy trốn vào rừng sâu núi thẩm, khi yên trận tàn sát ấy rồi, ra ngoài gặp ai c̣n sót lại, cũng đồng xin đừng sát hại lẫn nhau nữa (đă giữ được 1 giới sát sanh) nên con những người ấy tuổi lên được 20 hoặc 25 tuổi, rồi lại hứa không lấy của ai (lại giữ giới không trộm cắp) những người con cháu lại thêm tuổi lên đến 50 năm, cứ thế măi lần lần giữ cả ngũ giới là không sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói láo, uống rượu th́ tuổi thọ của những con cháu sau sau ngày càng càng thêm lên măi cho đến tuổi 1 A-tăng-kỳ năm mới chết.

Sống măi không chết cũng chán, mới có 1 hạng người nói rằng ḿnh làm theo ông bà hoài nên không thấy ai chết hết, lại bắt đầu sát sanh nên con cháu lại hạ xuống c̣n nữa A-tăng-kỳ rồi lần lần bỏ bớt giới hạnh th́ tuổi lại càng hạ xuống măi măi cho đến khi chúng sanh tuổi c̣n 10 muôn năm.

Lúc ấy Đức Phật Di Lặc mới giáng sanh dạy đạo. Ngài giáng sanh tại xứ KETU METT̀, cha tên SUBRAMA, mẹ tên BHRAMAVAT̀, lúc ở thế có 30 muôn cung phi mỹ nữ hầu hạ. Khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, lúc xuất gia th́ bay cả lâu đài có vô số vua, chư hầu và quan quân đồng xuất gia theo ngài hành đạo, trong 7 ngày th́ đắc quả dưới cây Mù u, tuổi thọ 8 muôn năm, bề cao ngài 44 thước. Ngài ḍng Bà-la-môn, hào quang ở nơi ngực, hai bàn tay và đầu gối ngài sáng ra cả ngày và đêm thấu đến 10 thế giới sa bà, người ta không thể phân biệt ngày đêm v́ hào quang che lắp cả mặt trời và mặt trăng, người ta chỉ thấy bông nở hoặc tàn, hoặc là nghe tiếng gà gáy mà phân biệt ngày đêm luôn luôn cho đến khi ngài nhập diệt. Ngài đă thực hành tu 10 pháp Ba-la-mật 16 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp.

Này Xá Lợi Phất, Như Lai chỉ kể về 1 pháp Ba-la-mật của Ngài là: có 1 kiếp sanh làm Chuyển luân vương tên SANGHA CAKKA. Bồ-tát có 7 báu trị v́ thiên hạ 101 nước chư hầu trên thế giới, khi hay tin một vị sa di cho hay rằng có Đức Phật, Pháp, Tăng đă ra đời, Ngài vui mừng đến ngất người ba lần, sau lại bố thí ngôi báu, cho ông sa di ấy, bèn đi chân không đến nơi Phật ngự, đi một ngày đầu lỡ cả hai chân, máu chảy ṛng ṛng đi không được nữa, qua ngày sau ngài ḅ bằng hai tay và hai đầu gối, được 1 ngày cũng chảy máu cả, qua ngày sau ngài ḅ không được bèn trường đi bằng ngực, lả ngực máu chảy ṛng ṛng, không thể trường được nữa, nhưng chưa gặp Đức Phật, chỉ mới nữa đường.

Lúc ấy Đức Phật SIRIMATTI biết được bèn hóa ra người đánh xe chạy tới bảo tránh, Bồ-tát nói tôi không thể nào tránh được v́ ḿnh mẩy lở hết. Đức Phật bèn hỏi người đi đâu. Bồ-tát nói tôi muốn đi gặp Phật. Đức Phật nói: thôi để tôi đưa dùm cho. Rồi ngài xuống xe bồng Bồ-tát để lên xe giả. Đánh xe 1 chút th́ nói đây tới cửa chùa, mời ông xuống, lúc ấy có vị trời Đế Thích biết được bèn mang 1 gói cơm và 1 bầu nước tới cho, phần th́ bịnh và đói nên lảnh cơm nước, khi thọ thực xong th́ tất cả vết thương đều lành lại hết và khỏe mạnh lại như thường. Bèn vào yết kiến Phật nhằm lúc đang thuyết pháp người ta hằng vạn vạn, nhưng êm như tờ. Bồ-tát vào đănh lễ xong xin Đức Phật thuyết pháp cho nghe, khi nghe được một câu kệ lại bạch Phật xin ngừng để ngài bố thí pháp. Ngài bèn lấy móng tay nguyện bén như gươm rồi cắt lấy đầu ḿnh để trên hai bàn tay mà cúng dường cho Pháp bảo, sau khi Phật thuyết xong th́ ngă xuống chân ngài mà chết. Nầy Xá lợi phất, v́ Bồ-tát không kể đến thân ḿnh ḅ trường đến lở hết, nên khi thành chánh quả có hào quang túa ra nơi ngực, hai bàn tay và hai đầu gối luôn luôn thấu đến 10 ngàn thế giới và không tiếc mạng sống, dám bố thí cho pháp bảo nên khi thành chánh quả tuổi thọ đến 8 muôn năm.

Sau khi Đức Phật Di Lạc nhập diệt rồi th́ tuổi thọ chúng sanh càng ngày càng giảm xuống cho tới khi tuổi chỉ c̣n 10 năm là già rồi, lần lần không c̣n chúng sanh nào sanh lên quả địa cầu cả. Trước khi 100.000 năm tới kiếp hoại th́ chư thiên bay trên không trung kêu la báo tin cho biết c̣n mấy năm nữa th́ sẽ tiêu hoại quả địa cầu. Khi ấy chúng sanh sợ sệt chán nản, ai ai cũng ráng lo tu hành lần lần sanh về cơi trời dục giới, chư thiên ở cơi trời nầy cũng hải hùng kinh khủng quả địa cầu cháy th́ cũng cháy luôn cả 6 từng trời dục giới và 2 cơi trời sắc giới là: PÀRISAJJÀ và POROHITTA nữa, nên kinh sợ rồi ráng tham thiền cho đắc các cơi thiền bực trên, cho đến khi sanh về hết trên cơi trời sắc giới. Khi quả địa cầu không c̣n ai ở nữa th́ mặt trời lần lần mọc lên 2 mặt trời, 1 thời gian thật lâu, lại mọc lên 3, 4, 5, 6, 7 mặt trời th́ lúc ấy bấy giờ nước biển khô khan không c̣n 1 giọt. Chừng ấy, lửa phát lên cháy cả quả địa cầu rồi tiêu hoại và cháy luôn cả 6 cung trời dục giới và 2 cơi trời sắc giới từng dưới chót. Kể từ đó chỉ c̣n khí hư u minh cho đến khi cấu tạo quả địa cầi mới khác. Từ đó 1 thời không gian là A-tăng-kỳ kiếp không có vị Phật tổ nào ra đời dạy đạo cả.

-oOo-

Kế sau đó có quả địa cầu có 2 vị Phật tổ giáng sanh là: RÀMADEVA và DHAMMARÀJÀMUNI.

Vị thứ nhất tên RÀMADEVA khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, thành đạo dưới gốc cây thị, tuổi thọ 9 muôn năm, bề cao ngài 40 thước, hào quang túa ra sáng khắp cả thế giới luôn luôn ngày đêm chớp nháng tới lui trên hư không chẳng ngừng nghỉ. Do nhờ pháp Bà-la-môn có cây Như ư thọ (Kàlabriksa) mọc lên rất nhiều để cho chúng sanh cần dùng. Cây như ư thọ này có mănh lực phi thườøng, là bất cứ ai muốn điều chi, như y phục, vật thực, đồ trang điểm chi chi... lại tới cây ấy ước th́ sẽ được theo như ư muốn. Đây là nhờ pháp nguyện lực Ba-la-mật của Đức Phật. Cho nên, chúng sanh lúc ấy khỏi cực nhọc nên ai ai cũng đều tu hành, v́ chúng sanh nào sanh ra kịp Phật th́ ngài độ tận chúng sanh, ít lắm cũng được sanh về cơi trời hết thảy.

Nói về 1 pháp Ba-la-mật của ngài: có 1 kiếp sanh ra tên là NÀRADA gặp Đức Phật KASSAPA (Ca diếp) ra đời, vào nghe pháp thấy hào quang trong ḿnh Đức Phật phóng ra sáng ngời rực rở bèn phát tâm trong sạch bố thí mạng sống ḿnh, cúng dường cho Phật và nguyện cho thành 1 vị chánh giác có nhiều hào quang như ngài. Nguyện xong liền lấy miếng vải nhúng dầu quấn vào ḿnh đốt lên cúng dường cho Đức Phật. Khi lửa cháy lên th́ mùi bay lên thơm bát ngát. Khi cháy xong chổ ấy mọc lên 1 bông sen bằng ngọc, mọi người đều cho là ông NÀRADA sẽ thành một vị Phật tổ như ư nguyện.

-oOo-

Kế sau đó, Đức Phật DHAMMARÀJÀ-MUNI (chính là đức vua Ba tư nặc, PASEMANDI KOSALA) khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, đắc đạo dưới cây Dừng, tuổi thọ 5 muôn năm, bề cao ngài 8 thước. Khi ngài đi đâu mỗi bước đều có bông sen bằng bánh xe mọc lên đở bàn chân ngài, khi ngồi th́ có bông sen bằng 7 thứ ngọc mọc lên làm bảo tọa cho ngài ngồi. Do nhờ pháp Ba-la-mật của Đức Phật mà có cây Như ư thọ mọc lên rất nhiều để cho bá tánh cần dùng có đủ thực phẩm và đồ trang sức.

Nói về 1 pháp Ba-la-mật: có 1 kiếp ngài sanh làm người nghèo khổ lắm, tên là SUDDHÀ MÀNAVA, ở mướn coi giữ ao sen cho người. Họ cho phép mỗi bữa chỉ được hái 2 bông sen đổi gạo mà chỉ độ thôi. Một hôm đang đem 2 bông sen đi bán gặp Đức Phật KONÀGAMANA, Đức Phật thấy bèn chúm chiếm cười. Y liền bạch Phật tại sao ngài cười. Phật đáp: Người là em ta, v́ ta đă thành Chánh giác, c̣n người sẽ thành Chánh giác trong ngày vị lai vậy. Nghe xong hết sức vui mừng, tính nhịp đói bữa đó để đem 2 bông sen dâng cho Phật và nguyện cho thành Chánh giác như ngài. Đức Phật thọ lấy bông sen và trăi ra ngồi lên trên. Thấy nắng lắm ngài bèn nguyện cho đừng nắng Đức Phật . Liền khi ấy có 4 cây mọc lên và 2 khổ văi kết thành một tấm trần che Đức Phật cho khỏi nắng. Đức Phật bèn cầu chúc và thọ kư cho. Khi ấy tất cả chư thiên và phạm thiên nghe Đức Phật cầu chúc th́ đều đồng nhau hoan hô và cầu chúc theo, tiếng nghe rền vang inh ỏi cả trời. Do sự hy sinh nhịn đói ấy nên khi thành chánh quả có cây như ư thọ mọc lên có đủ vật thực cho chúng sanh dùng và bố thí bông sen cho Phật, nên sau thành chánh quả, đi mỗi bước đều có bông sen mọc lên đở bàn chân ngài.

-oOo-

Kế tiếp, quả địa cầu sau có 1 vị Phật tổ ra đời tên là DHAMMASÀMI (chính là Ma vương thành Phật vậy) khi c̣n Bồ-tát thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, đắc đạo dưới cây long thọ (SALA) tuổi thọ 10 muôn năm, bề cao ngài 40 thước, hào quang trong ḿnh Phật luôn luôn phóng ra sáng ngời như mặt trời mặt trăng, luôn luôn chớp nhoáng tới lui không ngớt. Do nhờ pháp Ba-la-mật, khi Đức Phật đi, đứng nằm ngồi đều có cây lọng bề cao 16 do tuần che ngài luôn, và có hầm vàng hầm bạc mọc lên để cho chúng sanh cần dùng.

Nói về một pháp Ba-la-mật: khi ấy tiền kiếp ngài sanh lên tên là BODHINÀMA làm quan đại thần. Một hôm Đức Phật Ca Diếp (KASSAPA) nhập đại định, đức vua trong xứ ấy hay bèn cho quan quân canh giữ không cho ai được phép làm phước tới Đức Phật khi ngài xả định, nếu ai phi phép th́ bị xử trảm. Lúc ấy vị đại thần BODHINÀMA bèn biểu vợ con sửa soạn thực phẩm và 1 lá y định đem dâng cho Đức Phật. Sáng ra ông đem vật thực và lá y tới trước chùa thấy quân lính bao vây dày đặc, thấy ông đem đồ lại th́ hỏi ông th́ ông nói thật rằng đem đồ dâng cho Phật, quân lính liền bắt ông đem về cho vua, vua truyền lịnh xử trảm. Lúc ấy Đức Phật vừa xả định biết được liền phóng ḥa quang ra cho vị ấy thấy ngài ở trước mặt, ông rất mừng và đem vật thực và lá y dâng cho Phật, Đức Phật có vỗ đầu ông và nói xin cho nhà ngươi vô hại, rồi ngài thọ thực. Vị quan ấy dâng xong nguyện cho thành được 1 bậc chánh giác trong thời vị lai. Đức Phật thọ kư cho vừa xong th́ quân lính đem ông ra xử trảm. Lúc chém ông th́ mặt đất rung rinh làm cho đền đài nhà vua đều sụp đổ. Vua sợ hải bèn truyền lệnh cho đóng mấy cửa thành. Lúc ấy chỗ chém Bồ-tát liền mọc lên một ṭa lâu đài bằng 7 thứ ngọc có 1 ngàn tiên nữ chầu chực và 16 hầm vàng bạc mọc lên 4 góc thành và cây Như ư thọ cũng mọc lên do oai lực phước báu của Bồ-tát. C̣n vị quan ấy th́ sống lại như thường, tuổi được 5 trăm, có cả vợ con và quan quân hầu hạ. Do phước báu liều mạng sống dâng cơm cho Phật, khi sanh ra kiếp nào cũng có thứ lúa sali mọc lên hằng hà sa số cho bá tánh gặt, cần dùng bao nhiêu cũng không hết.

-oOo-

Sau khi ấy, có 1 quả địa cầu có 2 vị Phật tổ ra đời. Vị thứ nhất tênlà NÀRADA (chính là RAHULA ASURIN là chúa của bọn ATULA thành Phật). Khi ấy thấy 4 điềm rồi chán nản bỏ nhà xuất gia, đắc đạo dưới cây trầm hương, bề cao ngài 60 thước. Hào quang phóng ra luôn luôn như chớp nháng, có thứ hào quang h́nh như bông sen sáng ngời phóng ra quanh quẩn luôn chung quanh Đức Phật. Do phước Ba-la-mật của Đức Phật mà mặt địa cầu trở thành thực phẩm, có 7 vị ngọt ngon chúng sanh móc lấy mặt đất mà dùng như vật thực.

Nói về một pháp Ba-la-mật: có 1 kiếp Bồ-tát sanh ra làm vua tên SIRIGUTTA có 8 vị Bà-la-môn tới nghe về pháp nguyện thành một Bà-la-môn cho vua nghe, rồi xin ngài cho ngôi vua, đức Bồ-tát cho hết rồi dẫn vợ và 2 con đem ở trên núi và thọ tŕ 6 giới theo các đạo sĩ và ẩn tu nơi ấy. Lúc ấy, có 1 con Dạï xoa bề cao 60 thước, tới trước mặt Bồ-tát xin 2 đức con để về ăn thịt. Bồ-tát liền cho 2 đức con và nói tôi đă ăn 7 con tượng, 14 con ngựa, 20 con thú rừng mà c̣n đói lắm xin ngài tội nghiệp cho 2 đứa con để ăn thịt. Bồ-tát liền cho 2 đứa con cho chằng rồi nguyện cho thành 1 vị Phật tổ để độ tận chúng sanh. Lúc ấy mặt địa cầu rung rinh, rúng động, tất cả chư thiên và phạm thiên đều vỗ tay hoan nghênh sự toàn thắng của Bồ-tát, tiếng nghe vang rền cả trời, lại giông mưa sấm chớp gầm thét nghe inh ỏi. Vừa lúc con Dạï xoa đem 2 đức con ra sau sala ngài mà ăn tươi nuốt sống, vừa cho Bồ-tát ngó thấy, nhưng ngài không buồn giận, lại vui thích với phước báu ngài đă làm (lời soạn giả, chúng ta phần đông đều nói từ bi, tội nghiệp mà chỉ từ bi với vợ con ḿnh thôi, c̣n vợ con người có điều chi khổ sở, ḿnh chỉ lấy con mắt ngó mà cười, chớ không tội nghiệp. Đừng nói chi tới bố thí vợ con cho người, mà dầu có ai rũ đi xuất gia tu hành, th́ nói tôi v́ ḷng từ bi, tội nghiệp vợ con bỏ đi không đành, nói nghe cho cao thượng, chớ không lẽ nói ḿnh v́ quyết luyến hoặc v́ ái t́nh mà dứt bỏ đi không được th́ sợ thẹn. C̣n trái lại các vị Bồ-tát ngài không v́ từ bi, tội nghiệp vợ con ḿnh, mà lại từ bi thương xót tất cả chúng sanh hơn là thương ḿnh và vợ con ḿnh. V́ thấy cái khổ chúng sanh chịu không được rồi không nghĩ tới ḿnh hoặc vợ con ḿnh mới dứt bỏ mà bố thí được).

-oOo-

Kế sau đó Đức Phật RANGSI MUNI (chính là SONABRÀHMA), khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, đắc đạo dưới cây sơn, tuổi thọ 5 ngàn năm, bề cao ngài 30 thước. Hào quang trong ḿnh Phật phóng ra luôn luôn, lúc ban ngày th́ màu vàng, ban đêm th́ màu xanh, sáng ngời như ngọc, nhờ hào quang của Đức Phật nên chúng sanh khi ấy màu da đẹp như vàng ṛng, không dơ bẩn. Nhờ pháp Ba-la-mật của Phật mà chúng sanh chỉ lấy hột bông cải trồng xuống rồi mọc lên đủ thứ vật thực phẩm và đồ vật dụng đủ thứ không thiếu món chi.

Nói về một pháp Ba-la-mật của ngài: có 1 kiếp Bồ-tát sanh làm người lái buôn tên MÀGHA MÀNAVA rất thông thạo về nghề buôn bán một lời mười, nhưng 4 lần bị tai hại là bị ch́m thuyền, nhà cháy, cướp giựt, sau lại bị nhà vua tịch thâu gia sản. Bồ-tát chán nản, bỏ đi chỉ lấy được 1 lá y vàng và 10 muôn lượng vàng đem theo để làm vốn. Gặp một vị tỳ khưu Thượng thinh văn của Đức Phật KAKUSANDHA nhập đại định 7 ngày, MÀGHA MÀNAVA trong sạch đem y và của bố thí hiến cho ngài và nguyện cho thành vị Phật tổ để độ tận chúng sanh. Vị A-la-hán cầu chúc xong chổ ấy bèn mọc lên một cây như ư thọ có 1 cái đền bằng ngọc cho ông ở nơi ấy.

-oOo-

Kế quả địa cầu sau đó có 2 vị Phật tổ ra đời, vị thứ nhất tên DEVADEPA (chính là SUBHA BRAHMA) khi thấy 4 điềm bèn chán nản xuất gia, đắc đạo dưới cây Cầy, tuổi thọ 8 muôn năm, bề cao ngài 40 thước, hào quang trong ḿnh Phật túa ra luôn luôn màu vàng rực rở do nhờ phước Ba-la-mật của Phật mà bụi trần trên mặt đất biến thành gạo sali và cây như ư thọ mọc lên có đủ thực phẩm cho chúng sanh dùng.

Nói về 1 pháp Ba-la-mật: có 1 kiếp Bồ-tát sanh làm tượng (voi chúa) tên là CHADANTA có 6 ngà, gặc xác một vị A-la-hán nhập Niết bàn gần chổ ở, bèn nguyện cưa trên hư không rớt xuống rồi cưa ngà làm chổ để thiêu xác vị A-la-hán ấy và làm phước trong 7 ngày rồi nguyện cho thành Phật tổ, sau khi măn kiếp ấy liền sanh về cung trời Đâu suất.

-oOo-

Kế sau đó Đức Phật NARASI MUNI (chính là TOT̀ BRAHMA thành đạo), khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, thành đạo dưới cây cẩm lai, tuổi thọ 80 năm, bề cao ngài 30 thước, hào quang trong kim thân Phật túa ra luôn ban ngày ánh sáng như ngọc mani trắng, ban đêm th́ màu vàng rực rở. Do phước Ba-la-mật của ngài, có lúa sali và cây như ư thọ mọc lên để cho bá tánh cần dùng, người ta lúc ấy do hào quang của Phật mà màu da như vàng ṛng. Khi Đức Phật ngự nơi nào đều có cây lọng bằng bảy thứ ngọc báu cao 3 do tuần luôn luôn ở trên hư không, che Đức Phật.

Nói về một pháp Ba-la-mật: có 1 kiếp Bồ-tát sanh làm NANDA MÀNAVA, gặp Đức Phật độc giác bèn phát tâm trong sạch đem y cà sa đáng giá 100.000 đồng, dâng cho ngài và nguyện cho thành 1 bực chánh giác để độ tận chúng sanh.

Sau khi Đức Phật NARASI MUNI nhập diệt rồi có 1 thời không gian là 1 A-tăng-kỳ đại kiếp không có Đức Phật nào ra đời.

-oOo-

Kế sau đó có 2 vị Phật tổ ra đời, vị thứ nhất tên là TISSA (chính là voi NÀLÀGIRI thành đạo), khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, đắc đạo dưới cây da, tuổi thọ 8 muôn năm, bề cao ngài 40 thước.

Hào quang trong ḿnh Phật phóng ra đủ thứ, có thứ sángrực như lữa cả ngày và đêm, có thứ trắng xóa nh́n giống như chiếc thuyền, có thư như cây lọng, có thứ như cây phướn, có thứ túa ra theo 1000 lông mày của ngài, luôn luôn quay cuộn theo ngài. Do phước Ba-la-mật của ngài có nhiều cây như ư thị mọc lên có đủ thực phẩm và đồ trang sức cho chúng sanh dùng theo ư muốn.

Nói về một pháp Ba-la-mật: Có 1 kiếp ngài sanh làm vua tên DHAMMA SENA một hôm đi dạo vườn hoa với 2 con và vợ, có hai con Dạ xoa tới xin đứa con, khi về gần tới thành có 1 ông già lụm cụm tới xin hoàng hậu. Đứùc vua cho luôn, ông than ḿnh nghèo khổ không có chi nuôi bà, vua bèn cho cả ngôi báu cho ông già ấy. Khi tôn vương xong, đức Bồ-tát bèn xuất gia theo đạo sĩ, đắc các pháp thần thông.

Một hôm nghe tin Phật KONÀGAMANA ra đời bèn bay tới đănh lễ nghe pháp. Khi Đức Phật thuyết được một câu kệ th́ ông xin Phật nghỉ, để ông bố thí pháp bảo, bèn lấy móng tay, nguyện cho bén như gươm cắt đầu bố thí pháp và nguyện cho thành 1 vị Phật tổ để độ chúng sanh thoát khỏi khổ, lúc ấy toàn thể địa cầu đều rung rinh lạ lùng ghê gớm.

-oOo-

Kế sau đó, có 1 vị Phật tổ ra đời tên là SUMANGANA (là voi tượng PÀLILÀYA thành đạo) khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia dưới cây Mù u, tuổi thọ 10 muôn năm, bề cao Đức Phật 30 thước, hào quang Đức Phật phóng ra luôn luôn quanh quẩn theo ngài, ban đêm th́ màu trắng ngời như bạc, ban ngày th́ màu sáng ánh như vàng ṛng. Do phước Ba-la-mật của ngài có nhiều cây như ư thọ mọc lên, có đủ thực phẩm và đồ trang sức cho chúng sanh dùm không thiếu món chi, người ta lúc ấy sung sướng vô cùng, nhu cảnh trời vui mừng hát múa theo những tiếng nhạc du dương khi gió cuốn đưa chạm vào lá những cây như ư thọ ấy.

Nói về 1 pháp Ba-la-mật: khi ngài c̣n làm Bồ-tát, có 1 kiếp sanh làm chuyển luân vương, Bồ-tát có báu giàu sang trong 4 biển. Một hôm vua sai vị bá hộ bảo đi t́m vàng ngọc, ông đi tới một nước kia, khi hay tin Đức Phật KAKUSANDHA, đă ra đời, ông bèn vẽ h́nh Phật và về tâu cho vua nghe tự sự, vua hềt sức vui mừng đến chết giấc 3 lần. Khi tỉnh lại ngài bèn nhường ngôi cho vị bá hộ ấy v́ có công cho ngài hay tin Đức Phật ra đời, rồi ngài đi chân không tới 1 cây đại thọ ngồi nghỉ, rồi thành tâm đănh lễ Đức Phật từ phương xa và nguyện 8 món đồ xuất gia bay tới cho ông. Đức Phật biết được tâm ông bèn sai 8 món phụ tùng bay đi tới chổ vua nghĩ, vua rất vui mừng và thọ lănh xuất gia tại chổ ấy. Đoạn ông lấy măo ngọc thảy lên không trung và sai đi bạch Phật rằng: ông đă xuất gia và đi đến đănh lễ Phật. Măo ấy bay đến nơi Phật ngự và bạnh y như lời vua sai, rồi đức vua lần vào xóm đi khuất thực xin ăn, độ xong, tham thiền và đắc thiền, rồi bay tới nơi Phật ngự. Khi tới chùa gặp Phật, hết sức vui mừng đến chết giấc 3 lần. Khi tỉnh lại xin Đức Phật thuyết pháp cho nghe được 1 câu kệ, bèn xin Đức Phật ngưng thuyết để cho ông bố thí pháp bảo, v́ pháp bảo quư giá, vô giá, rồi ông lấy móng tay nguyện cho bén như gươm cắt đầu ḿnh để lên 2 bàn tay mà bố thí pháp cho Đức Phật và nguyện xin cho đắc thành chánh quả để độ tận chúng sanh, Đức Phật thọ kư cho.

-oOo-

Đức Phật Thích Ca bèn giảng giải thêm cho Xá Lợi Phất rằng: - Này Xá Lợi Phất, nếu ai chưa đắc đạo quả trong giáo pháp của Như Lai th́ nguyện cho đắc đạo quả trong thời kỳ của 10 vị Phật tổ sau này sẽ được y như nguyện không sai vậy.

(Theo Chú giải, như ai tạo được phước lành là bố thí, tŕ giới, th́ nên nguyện như vầy: IDAM VATTA ME PUNNAM ÀSAVAKKHAYO VAHAM HOTU ÀGÀGATE; nghĩa: do sự phước báu mà tôi đă làm đây xin kết được duyên để diệt tận các pháp trầm luân trong ngày vị lai. Khi đă nguyện như thế th́ thế nào cũng gặp được 1 Đức Phật trong ngày vị lai chẳng sai vậy.)

Này Xá Lợi Phất, chư Bồ-tát đă được thọ kư 10 vị c̣n 500 vị nữa pháp Ba-la-mật chưa tṛn đủ nên chưa có Đức Phật nào thọ kư cho.

10 HUỆ LỰC

Tất cả chư Phật đều có 10 huệ lực như nhau, có 32 tướng lạ in nhau, có 3 ân đức và 8 cái minh (cái giác) và 15 cái hạnh in nhau hết thảy.

10 huệ lực ấy là:

1- THÀNÀTHÀNA NÀNA: huệ biết rơ cái nhân để đưa chúng sanh đến chổ vui hoặc khổ đúng theo sự thật.

2- VIPÀKA JÀNANA NÀNA: huệ biết rơ cái quả của chúng sanh trong quá khứ, vị lai và hiện tại đều do nghiệp lành hoặc dữ mà trả quả.

3- SABBATTHA GÀMIǸ PATIPADÀ NÀNA: huệ biết rơ tất cả các pháp hành-vi thế nào để đưa chúng sanh đến chổ vui hoặc khổ trong tam giới.

4- NÀNÀDHÀTU JÀNANA NÀNA: huệ biết rơ tất cả nguyên chất khác nhau là: chất đất, nước, gió, lữa, hư không và chất thức v.v....

5- NÀNÀDHIMUTTI NÀNA: huệ biết rơ tất cả chúng sanh có căn cơ thấp hèn hay cao thượng.

6- PAROPARIYA NÀNA: huệ biết rơ biết rơ tất cả chúng sanh đều có tư cách và tŕnh độ khác nhau.

7- JHÀNA VIMOKKHA SAMÀPATTI NÀNA: huệ biết rơ tất cả sự trong sạch hay dơ bẩn các sắc thiền và sự giải thóat.

8- PUBBENIVÀSÀNUSSATI NÀNA: huệ biết rơ tất cả những tiền kiếp của ḿnh và của chúng sanh tới vô lượng vô biên kiếp, khi sanh ra ḍng giống thế nào, tên họ chi, h́nh dáng ra sao, vui khổ thế nào đều biết rơ không sai v.v...

9- CUTÙPAPÀTANNÀNA: có huệ nhăn biết rơ tất cả sự sanh tử luân hồi của chúng sanh đều do theo duyên nguyện lành dữ cấu tạo.

10- ÁSAVAKKHAYA NÀNA: huệ biết rơ tất các các pháp trầm luân (là pháp làm cho chúng sanh ch́m đắm măi măi không thoát khỏi khổ) và diệt tận các pháp ấy, không cho phát sanh lên nữa.

32 TƯỚNG LẠ:

1 - SUPATITTHITA PÀDÀ: hai ḷng bàn chân bằng phẳng, phần đông phần bàn chân đều hủng (trủng vô) người ḷng bàn chân ít hủng là người ít phiền năo.

2 - ÀHIKO PANASSA PÀDATALESU CAKKÀNI: 2 ḷng bàn chân đều có 2 bánh xe có 1000 cây căm.

3 - AYATAPANHI: gót chân thật dài bằng 3 lần của người bậc trung.

4 - D̀GHANGULI: ngón tay và ngón chân thật dài và nhọn lần như dùi trống.

5 - MUDUTARUNA HATTHAPADO: bàn tay và bàn chân thật mềm mại.

6 - JALA HATTHAPÀDO: 2 bàn tay và bàn chân có chỉ lẫn lộn như lưới giăng thật đẹp.

7 - USSANKHAPÀDO: cổ chân nổi lên rơ rệt trên lưng bàn chân.

8 - ENIJANGHO: ống quyển dài và tṛn như ống chân con nai.

9 - THITAKOVA ANOMAMANTO: 2 cánh tay thật dài, ngài đứng không cuối xuống nhưng 2 bày tay rờ tới đầu gối

10 - KOSOLITA VATTHAGUYHO: ngọc hành (dương vật) ẩn vào trong bọc da (như dương vật con ḅ).

11 - SUVANNO VANNA: màu da ngài sáng như vàng ṛng (kim thân)

12 - SUKHUMACCHAVI: da thịt mịn, bụi rớt không dính được.

13 - EKEKALONG: mỗi lỗ chân lông chỉ mọc 1 sợi lông đều nhau mỗi lỗ.

14 - UDDHAGGA LOMO: tất cả sợi lông đều dựng đầu trở lên toàn màu xanh như bông biếc (người thườøng th́ sợi lông đều tḥng xuống)

15 - BRAHMUJUGATTO: thân h́nh ngay thẳng giống như ḿnh trời Phạm thiên (đều đặn và ngay thẳng).

16 - SUTTUSSADO: có 7 chỗ thịt đều bằng phẳng là: thịt cần cổ, thịt hai lưng bàn tay, 2 lưng bàn chân, và 2 chả vai đều bằng thẳng đầy đủ chớ không hủng.

--oOo--

Nguồn: Buddha Sasana - A Buddhist Page by Binh Anson

 

   
 

<Đầu Trang>