Trang Chính

Trang Các Bản Dịch Mới

Font VU-Times

 

TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 01

 

PHÂN TÍCH GIỚI TỲ KHƯU tập I

ẤN BẢN 2013

Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda

(Đọc với font VU- Times và Acrobat Reader)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

3. 7. ĐIỀU HỌC VỀ LÀM TRÚ XÁ

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Kosambī, tu viện của Ghosita.[1] Vào lúc bấy giờ, người gia chủ hộ độ cho đại đức Channa[2] đă nói với đại đức Channa điều này: - “Thưa ngài, hăy t́m kiếm khu đất của trú xá. Tôi muốn cho xây dựng trú xá cho ngài.” Sau đó, trong khi dọn sạch khu đất của trú xá, đại đức Channa đă cho người đốn cội cây nọ vốn là nơi thờ phượng được làng mạc tôn kính, được thị trấn tôn kính, được thành phố tôn kính, được xứ sở tôn kính, được lănh thổ tôn kính. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các Sa-môn Thích tử lại cho chặt cội cây vốn là nơi thờ phượng được làng mạc tôn kính, được thị trấn tôn kính, được thành phố tôn kính, được xứ sở tôn kính, được lănh thổ tôn kính? Các Sa-môn Thích tử làm hại cuộc sống của loài có một giác quan?”[3] Các tỳ khưu đă nghe được dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao đại đức Channa lại cho chặt cội cây vốn là nơi thờ phượng được làng mạc tôn kính, ―(như trên)― được lănh thổ tôn kính?”

 

2. Sau đó, khi đă khiển trách đại đức Channa bằng nhiều phương thức, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này Channa, nghe nói ngươi cho chặt cội cây vốn là nơi thờ phượng được làng mạc tôn kính, ―(như trên)― được lănh thổ tôn kính, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: - “―(như trên)― Này kẻ rồ dại, v́ sao ngươi lại cho chặt cội cây vốn là nơi thờ phượng được làng mạc tôn kính, được thị trấn tôn kính, được thành phố tôn kính, được xứ sở tôn kính, được lănh thổ tôn kính vậy? Này kẻ rồ dại, bởi v́ có những chúng sanh có tâm thức là các hạng người ở trên cây cối. Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu trong khi cho xây dựng trú xá lớn có thí chủ, dành cho bản thân, nên dẫn các tỳ khưu đến để xác định khu đất. Các vị tỳ khưu ấy nên xác định khu đất là không có điều chướng ngại, có lối đi ṿng quanh. Nếu vị tỳ khưu cho xây dựng trú xá lớn dành cho bản thân ở khu đất có điều chướng ngại, không có lối đi ṿng quanh, hoặc không dẫn các tỳ khưu đến để xác định khu đất th́ phạm tội saṅghādisesa.

 

Trú xá lớn nghĩa là có thí chủ được đề cập đến.

 

Trú xá nghĩa là được tô ở bên trong, hoặc được tô ở bên ngoài, hoặc được tô bên trong lẫn bên ngoài.

 

Trong khi cho xây dựng: là đang làm hoặc đang bảo người làm.

 

Có thí chủ: có người nào khác là sở hữu chủ: hoặc là người nữ, hoặc người nam, hoặc người tại gia, hoặc vị xuất gia.

 

Dành cho bản thân: v́ nhu cầu của bản thân.

 

Nên dẫn các tỳ khưu đến để xác định khu đất: Vị tỳ khưu là người làm trú xá nên dọn sạch khu đất làm trú xá, nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: - “Bạch các ngài, tôi có ư định làm trú xá lớn, có thí chủ, dành cho bản thân. Bạch các ngài, tôi đây thỉnh cầu hội chúng việc xem xét khu đất làm trú xá.” Nên được thỉnh cầu lần thứ nh́. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba. Nếu toàn thể hội chúng có thể xem xét khu đất làm trú xá th́ (khu đất) nên được xem xét bởi toàn thể hội chúng. Nếu toàn thể hội chúng không có thể xem xét khu đất làm trú xá th́ tại nơi ấy, các vị tỳ khưu nào có kinh nghiệm, đủ năng lực để biết được có điều chướng ngại hoặc không có điều chướng ngại, có lối đi ṿng quanh hay không có lối đi ṿng quanh, các vị ấy nên được thỉnh cầu và nên được chỉ định. Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 

Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) có ư định làm trú xá lớn, có thí chủ, dành cho bản thân. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng việc xem xét khu đất làm trú xá. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định các tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) để xem xét khu đất làm trú xá của vị tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.

 

 Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) có ư định làm trú xá lớn, có thí chủ, dành cho bản thân. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng việc xem xét khu đất làm trú xá. Hội chúng chỉ định các tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) để xem xét khu đất làm trú xá của vị tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ư việc chỉ định các tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) để xem xét khu đất làm trú xá của vị tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.

 

Các tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) đă được hội chúng chỉ định để xem xét khu đất làm trú xá của vị tỳ khưu tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

 

Các vị tỳ khưu đă được chỉ định ấy sau khi đi đến nơi ấy nên xem xét khu đất làm trú xá và nên nhận biết là có điều chướng ngại hoặc không có điều chướng ngại, có lối đi ṿng quanh hay không có lối đi ṿng quanh. Nếu có điều chướng ngại và không có lối đi ṿng quanh th́ nên nói rằng: “Chớ làm ở đây.” Nếu không có điều chướng ngại và có lối đi ṿng quanh th́ nên thông báo với hội chúng rằng: “Không có điều chướng ngại và có lối đi ṿng quanh.” Vị tỳ khưu là người làm trú xá nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: - “Bạch các ngài, tôi có ư định làm trú xá lớn, có thí chủ, dành cho bản thân. Bạch các ngài, tôi đây thỉnh cầu hội chúng việc xác định khu đất làm trú xá. Nên được thỉnh cầu lần thứ nh́. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba. Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 

Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) có ư định làm trú xá lớn, có thí chủ, dành cho bản thân. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng việc xác định khu đất làm trú xá. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên xác định khu đất làm trú xá của vị tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.

 

Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) có ư định làm trú xá lớn, có thí chủ, dành cho bản thân. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng việc xác định khu đất làm trú xá. Hội chúng xác định khu đất làm trú xá của vị tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ư việc xác định khu đất làm trú xá của vị tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.

 

Khu đất làm trú xá của vị tỳ khưu tên (như vầy) đă được hội chúng xác định. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

 

Có điều chướng ngại nghĩa là có tổ kiến, ―(như trên)― hoặc kề cận chỗ qua lại; điều này nghĩa là có điều chướng ngại.

 

Không có lối đi ṿng quanh nghĩa là không thể đi ṿng với chiếc xe hàng được móc vào hoặc (không thể) đi ṿng xung quanh với cái thang; điều này nghĩa là không có lối đi ṿng quanh.

 

 Không có điều chướng ngại nghĩa là không có tổ kiến, ―(như trên)― hoặc không kề cận chỗ qua lại; điều này nghĩa là không có điều chướng ngại.

 

Có lối đi ṿng quanh nghĩa là có thể đi ṿng với chiếc xe hàng được móc vào hoặc (có thể) đi ṿng xung quanh với cái thang; điều này nghĩa là có lối đi ṿng quanh.

 

Trú xá lớn nghĩa là có thí chủ được đề cập đến.

 

Trú xá nghĩa là được tô ở bên trong, hoặc được tô ở bên ngoài, hoặc được tô bên trong lẫn bên ngoài.

 

Cho xây dựng: là (tự ḿnh) làm hoặc bảo người làm.

 

Hoặc không dẫn các tỳ khưu đến để xác định khu đất: sau khi không cho xác định khu đất làm trú xá bằng hành sự với lời thông báo đến lần thứ nh́ rồi (tự) làm hoặc bảo người làm th́ tội dukkaṭa cho mỗi thao tác. Khi c̣n chưa đến cục (vữa tô) cuối cùng th́ phạm tội thullaccaya. Khi cục (vữa tô) ấy đă được đặt vào th́ phạm tội saṅghādisesa.

 

Tội saṅghādisesa: ―(như trên)― cũng v́ thế được gọi là ‘tội saṅghādisesa.’

 

3. Vị tỳ khưu làm trú xá ở khu đất không được xác định, có chướng ngại, không lối đi quanh th́ phạm hai tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa.

 

Vị tỳ khưu làm trú xá ở khu đất không được xác định, có chướng ngại, có lối đi quanh th́ phạm tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa.

 

Vị tỳ khưu làm trú xá ở khu đất không được xác định, không có chướng ngại, không lối đi quanh th́ phạm tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa.

 

Vị tỳ khưu làm trú xá ở khu đất không được xác định, không có chướng ngại, có lối đi quanh th́ phạm tội saṅghādisesa.

 

Vị tỳ khưu làm trú xá ở khu đất đă được xác định, có chướng ngại, không lối đi quanh th́ phạm hai tội dukkaṭa.

 

Vị tỳ khưu làm trú xá ở khu đất đă được xác định, có chướng ngại, có lối đi quanh th́ phạm tội dukkaṭa.

 

Vị tỳ khưu làm trú xá ở khu đất đă được xác định, không có chướng ngại, không lối đi quanh th́ phạm tội dukkaṭa.

 

Vị tỳ khưu làm trú xá ở khu đất đă được xác định, không có chướng ngại, có lối đi quanh th́ vô tội.

 

Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hăy làm trú xá cho tôi.” Họ làm trú xá cho vị ấy ở khu đất không được xác định, có chướng ngại, không lối đi quanh th́ phạm hai tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa. ... có chướng ngại, có lối đi quanh th́ phạm tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa. ... không có chướng ngại, không lối đi quanh th́ phạm tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa. ... không có chướng ngại, có lối đi quanh th́ phạm tội saṅghādisesa.

 

4. Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hăy làm trú xá cho tôi.” Họ làm trú xá cho vị ấy ở khu đất đă được xác định, có chướng ngại, không lối đi quanh th́ phạm hai tội dukkaṭa. ... có chướng ngại, có lối đi quanh th́ phạm tội dukkaṭa. ... không có chướng ngại, không lối đi quanh th́ phạm tội dukkaṭa. ... không có chướng ngại, có lối đi quanh th́ vô tội.

 

5. Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hăy làm trú xá cho tôi” rồi ra đi và không có chỉ thị: “Phải là khu đất được xác định, không có chướng ngại, và có lối đi quanh.” Họ làm trú xá cho vị ấy ở khu đất không được xác định, có chướng ngại, không lối đi quanh th́ phạm hai tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa. ... có chướng ngại, có lối đi quanh th́ phạm tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa. ... không có chướng ngại, không lối đi quanh th́ phạm tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa. ... không có chướng ngại, có lối đi quanh th́ phạm tội saṅghādisesa.

 

6. Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hăy làm trú xá cho tôi” rồi ra đi và không có chỉ thị: “Phải là khu đất được xác định, không có chướng ngại, và có lối đi quanh.” Họ làm trú xá cho vị ấy ở khu đất đă được xác định, có chướng ngại, không lối đi quanh th́ phạm hai tội dukkaṭa. ... có chướng ngại, có lối đi quanh th́ phạm tội dukkaṭa. ... không có chướng ngại, không lối đi quanh th́ phạm tội dukkaṭa. ... không có chướng ngại, có lối đi quanh th́ vô tội.

 

7. Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hăy làm trú xá cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị: “Phải là khu đất được xác định, không có chướng ngại, và có lối đi quanh.” Họ làm trú xá cho vị ấy ở khu đất không được xác định, có chướng ngại, không lối đi quanh. Vị ấy nghe rằng: “Họ nói trú xá được làm cho ta ở khu đất không được xác định, có chướng ngại, không lối đi quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích thân đi hoặc phái người đưa tin rằng: “Phải là khu đất được xác định, không có chướng ngại, và có lối đi quanh.” Nếu không đích thân đi hoặc phái người đưa tin th́ phạm tội dukkaṭa. ... “Phải là khu đất được xác định và không có chướng ngại.” ... “Phải là khu đất được xác định và có lối đi quanh.” ... “Phải là khu đất được xác định.” Nếu không đích thân đi hoặc phái người đưa tin th́ phạm tội dukkaṭa.

 

8. Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hăy làm trú xá cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị: “Phải là khu đất được xác định, không có chướng ngại, và có lối đi quanh.” Họ làm trú xá cho vị ấy ở khu đất đă được xác định, có chướng ngại, không lối đi quanh. Vị ấy nghe rằng: “Họ nói trú xá được làm cho ta ở khu đất đă được xác định, có chướng ngại, không lối đi quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích thân đi hoặc phái người đưa tin rằng: “Phải là không có chướng ngại và có lối đi quanh.” ... “Phải là không có chướng ngại.” ... “Phải là có lối đi quanh,” th́ vô tội.

 

9. Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hăy làm trú xá cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị: “Phải là khu đất được xác định, không có chướng ngại, và có lối đi quanh.” Họ làm trú xá cho vị ấy ở khu đất không được xác định, có chướng ngại, không lối đi quanh th́ các vị xây dựng phạm ba tội dukkaṭa. ... có chướng ngại, có lối đi quanh th́ các vị xây dựng phạm hai tội dukkaṭa. ... không có chướng ngại, không lối đi quanh th́ các vị xây dựng phạm hai tội dukkaṭa. ... không có chướng ngại, có lối đi quanh th́ các vị xây dựng phạm tội dukkaṭa.

 

10. Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hăy làm trú xá cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị: “Phải là khu đất được xác định, không có chướng ngại, và có lối đi quanh.” Họ làm trú xá cho vị ấy ở khu đất đă được xác định, có chướng ngại, không lối đi quanh th́ các vị xây dựng phạm hai tội dukkaṭa. ... có chướng ngại, có lối đi quanh th́ các vị xây dựng phạm tội dukkaṭa. ... không có chướng ngại, không lối đi quanh th́ các vị xây dựng phạm tội dukkaṭa. ... không có chướng ngại, có lối đi quanh th́ vô tội.

 

11. Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hăy làm trú xá cho tôi” rồi ra đi. Họ làm trú xá cho vị ấy ở khu đất không được xác định, có chướng ngại, không lối đi quanh. Nếu vị ấy trở về lúc làm chưa xong, th́ vị tỳ khưu ấy nên cho trú xá ấy đến vị khác hoặc nên phá đi rồi cho làm lại. Nếu không cho đến vị khác hoặc không phá đi rồi cho làm lại th́ phạm hai tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa. ... có chướng ngại, có lối đi quanh th́ phạm tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa. ... không có chướng ngại, không lối đi quanh th́ phạm tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa. ... không có chướng ngại, có lối đi quanh th́ phạm tội saṅghādisesa.

 

12. Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hăy làm trú xá cho tôi” rồi ra đi. Họ làm trú xá cho vị ấy ở khu đất đă được xác định, có chướng ngại, không lối đi quanh. Nếu vị ấy trở về lúc làm chưa xong, th́ vị tỳ khưu ấy nên cho trú xá ấy đến vị khác hoặc nên phá đi rồi cho làm lại. Nếu không cho đến vị khác hoặc không phá đi rồi cho làm lại th́ vị ấy phạm hai tội dukkaṭa. ... có chướng ngại, có lối đi quanh ... th́ phạm tội dukkaṭa. ... không có chướng ngại, không lối đi quanh ... th́ phạm tội dukkaṭa. ... không có chướng ngại, có lối đi quanh th́ vô tội.

 

13. Vị tự ḿnh hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong th́ phạm tội saṅghādisesa. Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong th́ phạm tội saṅghādisesa. Vị tự ḿnh hoàn tất phần những người khác chưa làm xong th́ phạm tội saṅghādisesa. Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm xong th́ phạm tội saṅghādisesa.

 

14. Vô tội trong trường hợp hang núi, hang nhân tạo, cḥi cỏ, v́ nhu cầu của vị khác, trong mọi trường hợp ngoại trừ nhà ở, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Dứt điều học về làm trú xá.

 

--ooOoo--

 

 

3. 8. ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT VỀ VỊ XẤU XA SÂN HẬN

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, phẩm vị A-la-hán đă được đại đức Dabba Mallaputta[4] chứng ngộ vào lúc bảy tuổi. Vị ấy đă đạt được tất cả những ǵ vị đệ tử cần phải đạt đến. Và đối với vị ấy, không có bất cứ việc ǵ cao thượng hơn cần phải làm hoặc sự tích lũy thêm đối với việc đă làm. Khi ấy, đại đức Dabba Mallaputta trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ư nghĩ suy tầm như vầy đă khởi lên: “Phẩm vị A-la-hán đă được ta chứng ngộ vào lúc bảy tuổi. Ta đă đạt được tất cả những ǵ vị đệ tử cần phải đạt đến. Và đối với ta, không có bất cứ việc ǵ cao thượng hơn cần phải làm hoặc sự tích lũy thêm đối với việc đă làm. Vậy ta nên thực hiện việc phục vụ ǵ cho hội chúng?” Rồi điều này đă khởi đến cho đại đức Dabba Mallaputta: “Hay là ta nên phân bố chỗ cư ngụ và sắp xếp các bữa ăn cho hội chúng?”

 

2. Sau đó vào buổi tối, đại đức Dabba Mallaputta đă xuất khỏi thiền tịnh và đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, đại đức Dabba Mallaputta đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, trường hợp con trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ư nghĩ suy tầm như vầy đă khởi lên: ‘Phẩm vị A-la-hán đă được ta chứng ngộ vào lúc bảy tuổi. Ta đă đạt được tất cả những ǵ vị đệ tử cần phải đạt đến. Và đối với ta, không có bất cứ việc ǵ cao thượng hơn cần phải làm hoặc sự tích lũy thêm đối với việc đă làm. Vậy ta nên thực hiện việc phục vụ ǵ cho hội chúng?’ Bạch ngài, rồi điều này đă khởi đến cho con: ‘Hay là ta nên phân bố chỗ cư ngụ và sắp xếp các bữa ăn cho hội chúng?’ Bạch ngài, con muốn phân bố chỗ cư ngụ và sắp xếp các bữa ăn cho hội chúng.” - “Này Dabba, tốt lắm, tốt lắm! Chính v́ điều ấy ngươi hăy phân bố chỗ cư ngụ và sắp xếp các bữa ăn cho hội chúng.” - “Bạch ngài, xin vâng.” Đại đức Dabba Mallaputta đă đáp lại đức Thế Tôn.

 

3. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các vị tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, chính v́ điều ấy hội chúng hăy chỉ định Dabba Mallaputta là vị phân bố chỗ trú ngụ và là vị sắp xếp các bữa ăn. Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Trước hết, Dabba cần được yêu cầu. Sau khi yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 

Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định đại đức Dabba Mallaputta là vị phân bố chỗ trú ngụ và là vị sắp xếp các bữa ăn. Đây là lời đề nghị.

 

Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định đại đức Dabba Mallaputta là vị phân bố chỗ trú ngụ và là vị sắp xếp các bữa ăn. Đại đức nào đồng ư việc chỉ định đại đức Dabba Mallaputta là vị phân bố chỗ trú ngụ và là vị sắp xếp các bữa ăn xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.

 

Đại đức Dabba Mallaputta đă được hội chúng chỉ định là vị phân bố chỗ trú ngụ và là vị sắp xếp các bữa ăn. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

 

5. Và khi đă được chỉ định, đại đức Dabba Mallaputta phân bố chỗ trú ngụ chung một khu vực cho các tỳ khưu có cùng sở hành. Vị ấy phân bố chỗ trú ngụ chung một khu vực cho các tỳ khưu chuyên về Kinh (nghĩ rằng): “Các vị sẽ tụng đọc Kinh với nhau.” Vị ấy phân bố chỗ trú ngụ chung một khu vực cho các tỳ khưu rành rẽ về Luật (nghĩ rằng): “Các vị sẽ xác định về Luật với nhau.” Vị ấy phân bố chỗ trú ngụ chung một khu vực cho các tỳ khưu chuyên giảng Pháp (nghĩ rằng): “Các vị sẽ thảo luận về Pháp với nhau.” Vị ấy phân bố chỗ trú ngụ chung một khu vực cho các tỳ khưu chuyên về thiền (nghĩ rằng): “Các vị sẽ không quấy rầy lẫn nhau.” Vị ấy phân bố chỗ trú ngụ chung một khu vực cho các tỳ khưu chuyên nói chuyện thế tục, sinh hoạt có nhiều sự năng động về thân (nghĩ rằng): “Các đại đức này cũng sẽ yên ổn với thú vui ấy.” C̣n các tỳ khưu đi đến vào buổi tối, vị ấy thể nhập vào hỏa giới và phân bố chỗ trú ngụ cho các vị ấy bằng chính ánh sáng ấy. Cho nên, các tỳ khưu cố ư đi đến vào buổi tối (nghĩ rằng): “Chúng ta sẽ chứng kiến sự kỳ diệu về thần thông của đại đức Dabba Mallaputta.” Sau khi đi đến gặp đại đức Dabba Mallaputta, các vị ấy nói như vầy: - “Này đại đức Dabba, hăy phân bố chỗ trú ngụ cho chúng tôi.” Đại đức Dabba Mallaputta nói với các vị ấy như vầy: - “Các đại đức thích chỗ nào? Tôi sẽ phân bố chỗ nào?” Các vị ấy cố ư đề cập các chỗ xa xôi: - “Này đại đức Dabba, hăy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ngụ ở núi Gijjhakūṭa (Linh Thứu). Này đại đức Dabba, hăy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ngụ ở Corapapāta (khe núi Kẻ Cướp). Này đại đức Dabba, hăy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ngụ ở sườn núi Isigili, chỗ tảng đá Đen. Này đại đức Dabba, hăy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ngụ ở sườn núi Vebhāra, hang Sattapaṇṇa (Thất Diệp). Này đại đức Dabba, hăy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ngụ ở Sītavana (Hàn Lâm), động Sappasoṇḍika. Này đại đức Dabba, hăy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ngụ ở hẻm núi Gotama. Này đại đức Dabba, hăy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ngụ ở hẻm núi Tinduka. Này đại đức Dabba, hăy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ngụ ở hẻm núi Tapoda. Này đại đức Dabba, hăy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ngụ ở khu vườn Tapoda. Này đại đức Dabba, hăy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ngụ ở vườn xoài của Jīvaka. Này đại đức Dabba, hăy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ngụ ở Maddakucchi, nơi vườn nai.”

 

Đối với các vị ấy, đại đức Dabba Mallaputta đă thể nhập vào hỏa giới và đi ở phía trước với ngón tay đang được thắp sáng. Chính nhờ ánh sáng ấy, các vị ấy đi theo sát ở phía sau đại đức Dabba Mallaputta. Đại đức Dabba Mallaputta phân bố chỗ trú ngụ cho các vị ấy như vầy: - “Đây là giường, đây là ghế, đây là nệm, đây là gối, đây là chỗ tiêu, đây là chỗ tiểu, đây là nước uống, đây là nước rửa, đây là gậy chống, đây là qui định của hội chúng: ‘Giờ này có thể đi vào. Giờ này có thể đi ra.’” Sau khi đă phân bố chỗ trú ngụ cho các vị ấy, đại đức Daba Mallaputta quay trở về lại Veḷuvana.

 

6. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka[5] chỉ là các vị mới tu và phước báu ít ỏi. Các vị ấy thường nhận được những chỗ trú ngụ kém thuộc về hội chúng và những bữa ăn tồi. Vào lúc bấy giờ, dân chúng ở Rājagaha mong muốn cúng dường đến các tỳ khưu trưởng lăo thức ăn được chuẩn bị hoàn hảo gồm có bơ lỏng, dầu ăn, phần ăn thượng hạng, và thường dâng đến các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka vật b́nh thường theo khả năng gồm có cơm tấm và món thứ hai là cháo chua. Các vị ấy khi đi thọ thực về sau bữa ăn thường hỏi các tỳ khưu trưởng lăo rằng: - “Này các đại đức, các vị đă có thức ǵ ở tại nhà ăn? Các vị đă có thức ǵ?” Một số trưởng lăo trả lời như vầy: - “Này các đại đức, chúng tôi có bơ lỏng, có dầu ăn, có phần ăn thượng hạng.” Các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka nói như vầy: - “Này các đại đức, chúng tôi đă không được ǵ cả, chỉ là vật b́nh thường theo khả năng gồm có cơm tấm và món thứ hai là cháo chua.”

 

7. Vào lúc bấy giờ, có vị gia chủ là người có bữa ăn ngon thường cúng dường đến hội chúng bữa ăn gồm bốn phần là bữa ăn thường lệ. Vị ấy cùng vợ và các con thường hiện diện và phục vụ ở nhà ăn. Họ dâng các vị này cơm, dâng các vị kia canh, dâng các vị nọ dầu ăn, và dâng các vị khác phần ăn thượng hạng. Vào lúc bấy giờ, bữa ăn vào ngày hôm sau của vị gia chủ có bữa ăn ngon đă được sắp xếp cho các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka. Hôm ấy, vị gia chủ có bữa ăn ngon đă đi đến tu viện bởi công việc cần làm nào đó. Vị ấy đă đi đến đại đức Dabba Mallaputta, sau khi đến đă đảnh lễ đại đức Dabba Mallaputta rồi ngồi xuống ở một bên. Đại đức Dabba Mallaputta đă chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho vị gia chủ có bữa ăn ngon đang ngồi một bên bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đă được đại đức Dabba Mallaputta chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, vị gia chủ có bữa ăn ngon đă nói với đại đức Dabba Mallaputta điều này: - “Thưa ngài, bữa ăn vào ngày mai ở nhà chúng tôi đă được sắp xếp cho vị nào?” - “Này gia chủ, bữa ăn vào ngày mai ở nhà gia chủ đă được sắp xếp cho các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka.”

 

8. Khi ấy, vị gia chủ có bữa ăn ngon đă không được hài ḷng (nghĩ rằng): “Tại sao các tỳ khưu tồi lại thọ thực ở nhà của chúng ta?” rồi đă đi về nhà và dặn ḍ người tớ gái rằng: - “Này con, hăy xếp đặt chỗ ngồi ở nhà kho cho các vị đến thọ thực vào ngày mai và hăy phục vụ các vị ấy với cơm tấm và món thứ hai là cháo chua.” - “Thưa ông chủ, xin vâng.” Người tớ gái ấy đă đáp lại vị gia chủ có bữa ăn ngon.”

 

9. Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka (bàn bạc rằng): - “Này các đại đức, hôm qua bữa ăn của vị gia chủ là người có bữa ăn ngon đă được sắp xếp cho chúng ta. Vào ngày mai, vị gia chủ có bữa ăn ngon cùng vợ và các con sẽ hiện diện và phục vụ chúng ta. Họ sẽ dâng các vị này cơm, sẽ dâng các vị kia canh, sẽ dâng các vị nọ dầu ăn, và sẽ dâng các vị khác phần ăn thượng hạng.” Do chính tâm vui mừng ấy, ban đêm các vị đă không ngủ được như ư.

 

10. Sau đó vào buổi sáng, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka đă mặc y, cầm y bát, đi đến nhà của vị gia chủ có bữa ăn ngon. Cô tớ gái ấy đă nh́n thấy các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka từ đàng xa đang đi lại, sau khi nh́n thấy đă xếp đặt chỗ ngồi ở nhà kho và nói với các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka điều này: ­- “Thưa các ngài, xin hăy ngồi.” Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka khởi ư điều này: ‘Chắn hẳn đến giờ này bữa ăn vẫn chưa hoàn tất nên chúng ta mới được cho ngồi ở nhà kho như thế này!’ Sau đó, cô tớ gái ấy đă trở lại với cơm tấm và món thứ hai là cháo chua (nói rằng): - “Thưa các ngài, xin hăy thọ thực.” - “Này chị gái, chúng tôi là các vị thọ nhận bữa ăn thường lệ.” - “Tôi biết các ngài đại đức là các vị thọ nhận bữa ăn thường lệ. Tuy nhiên, chính ngày hôm qua tôi đă được vị gia chủ dặn ḍ rằng: ‘Hăy xếp đặt chỗ ngồi ở nhà kho cho các vị đến thọ thực vào ngày mai và hăy phục vụ các vị ấy với cơm tấm và món thứ hai là cháo chua.’ Thưa các ngài, xin hăy thọ thực.”

 

11. Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka (bàn bạc rằng): - “Này các đại đức, hôm qua vị gia chủ có bữa ăn ngon đă đi đến tu viện gặp Dabba Mallaputta. Chắc chắn rằng chúng ta đă bị Dabba Mallaputta ly gián với vị gia chủ!” Chính v́ tâm bực bội ấy, các vị ấy đă không thọ thực được như ư. Sau đó, khi trở về từ chỗ thọ thực sau bữa ăn, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka đă đi đến tu viện, bỏ bê y bát, rồi ngồi xuống ôm đầu gối bằng y hai lớp ở phía bên ngoài cổng ra vào của tu viện, im lặng, xấu hổ, rút vai lại, mặt cúi xuống, trầm ngâm, không nói năng.

 

12. Khi ấy, tỳ khưu ni Mettiyā đă đi đến gặp các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka, sau khi đến đă nói với các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka điều này: - “Tôi xin chào các ngài đại đức.” Khi được nói như thế, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka đă không đáp lại. Đến lần thứ nh́, ―(như trên)― Đến lần thứ ba, tỳ khưu ni Mettiyā đă nói với các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka điều này: - “Tôi xin chào các ngài đại đức.” Đến lần thứ ba, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka đă không đáp lại. - “Có phải tôi làm phật ḷng các ngài đại đức? Tại sao các ngài đại đức không nói chuyện với tôi?” - “Này cô ni, bởi v́ cô vẫn dửng dưng như thế trong khi chúng tôi bị Dabba Mallaputta làm tổn hại.” - “Thưa các ngài đại đức, tôi làm được điều ǵ?” - “Này cô ni, nếu cô chịu làm th́ ngay trong ngày hôm nay đức Thế Tôn có thể trục xuất Dabba Mallaputta.” - “Thưa các ngài đại đức, tôi làm được điều ǵ? Tôi có thể làm điều ǵ?” - “Này cô ni, cô hăy đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến hăy nói với đức Thế Tôn như vầy: ‘Bạch ngài, điều này là không đúng đắn, không hợp lư. Bạch ngài, chính ở quốc độ nào không có sự sợ hăi, không có tai họa, không có sầu khổ th́ chính ở quốc độ ấy có sự sợ hăi, có tai họa, và có sầu khổ. Từ nơi nào gió lặng đi th́ từ nơi ấy có băo tố. Con nghĩ rằng nước đă bùng cháy lên rồi; con đă bị ô nhục bởi ngài đại đức Dabba Mallaputta.’” - “Thưa các ngài đại đức, xin vâng.” Rồi tỳ khưu ni Mettiyā nghe theo các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Khi đă đứng một bên, tỳ khưu ni Mettiyā đă nói với đức Thế Tôn điều này:

 

- “Bạch ngài, điều này là không đúng đắn, không hợp lư. Bạch ngài, chính ở quốc độ nào không có sự sợ hăi, không có tai họa, không có sầu khổ th́ chính ở quốc độ ấy có sự sợ hăi, có tai họa, và có sầu khổ. Từ nơi nào gió lặng đi th́ từ nơi ấy có băo tố. Con nghĩ rằng nước đă bùng cháy lên rồi; con đă bị ô nhục bởi ngài đại đức Dabba Mallaputta.”

 

13. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đă hỏi đại đức Dabba Mallaputta rằng: - “Này Dabba, ngươi có nhớ ngươi là kẻ đă làm việc như thế, giống như điều tỳ khưu ni này vừa nói không?” - “Bạch ngài, con như thế nào th́ đức Thế Tôn biết mà.” Đến lần thứ nh́, đức Thế Tôn ―(như trên)― Đến lần thứ ba, đức Thế Tôn đă hỏi đại đức Dabba Mallaputta rằng: - “Này Dabba, ngươi có nhớ ngươi là kẻ đă làm việc như thế, giống như điều tỳ khưu ni này vừa nói không?” - “Bạch ngài, con như thế nào th́ đức Thế Tôn biết mà.” - “Này Dabba, các vị (ḍng dơi) Dabba không phủ nhận như thế. Nếu ngươi có làm, hăy nói: ‘Có làm;’ nếu ngươi không làm, hăy nói: ‘Không làm.’” - “Bạch ngài, từ khi con được sanh ra, con không bao giờ nhận thấy ḿnh là kẻ tầm cầu việc đôi lứa ngay cả trong lúc ngủ mơ, huống ǵ là tỉnh thức.” Khi ấy, đức Thế Tôn đă bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, chính v́ việc ấy các ngươi hăy trục xuất tỳ khưu ni Mettiyā và hăy tra hỏi các tỳ khưu này.” Nói xong điều ấy, đức Thế Tôn đă từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào trú xá.

 

14. Sau đó, các tỳ khưu ấy đă trục xuất tỳ khưu ni Mettiyā. Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka đă nói với các tỳ khưu ấy điều này: - “Này các đại đức, chớ có trục xuất tỳ khưu ni Mettiyā, cô ta không làm sai điều ǵ. V́ chúng tôi nổi giận, không hài ḷng, có ư định loại trừ nên xúi giục cô ta thôi.” - “Này các đại đức, có phải các vị bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta về tội pārājika không có nguyên cớ?” - “Này các đại đức, đúng vậy.” Các tỳ khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka lại bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta về tội pārājika không có nguyên cớ?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi bôi nhọ Dabba Mallaputta về tội pārājika không có nguyên cớ, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng ―(như trên)― “Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi lại bôi nhọ Dabba Mallaputta về tội pārājika không có nguyên cớ vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào xấu xa, sân hận, bất b́nh vị tỳ khưu (khác) rồi bôi nhọ về tội pārājika không có nguyên cớ (nghĩ rằng): ‘Chắc là ta có thể loại vị ấy ra khỏi Phạm hạnh này.’ Sau đó vào lúc khác, trong khi được hỏi hay trong khi không được hỏi và sự tranh tụng ấy thật sự không có nguyên cớ, vị tỳ khưu (dầu có) thú nhận lỗi lầm (cũng) phạm tội saṅghādisesa.

 

15. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

Vị tỳ khưu: là vị tỳ khưu khác.

 

Xấu xa, sân hận: bị nổi giận, không được hài ḷng, không được thỏa măn, có tâm giận dữ, nảy sanh ḷng cay cú.

 

Bị bất b́nh: là bị bất b́nh do sự nổi giận ấy, do sự sân hận ấy, do sự không được hài ḷng ấy, do sự không được thỏa măn ấy.

 

Không có nguyên cớ nghĩa là không được thấy, không được nghe, không bị nghi ngờ.

 

Về tội pārājika: về bất cứ điều nào thuộc về bốn điều.

 

Bôi nhọ: hoặc là buộc tội, hoặc là bảo người buộc tội.

 

Chắc là ta có thể loại trừ vị ấy ra khỏi Phạm hạnh này: Ta có thể loại trừ (vị ấy) ra khỏi trạng thái tỳ khưu, ta có thể loại trừ (vị ấy) ra khỏi pháp Sa-môn, ta có thể loại trừ (vị ấy) ra khỏi giới uẩn, ta có thể loại trừ (vị ấy) ra khỏi đức tính khắc khổ.

 

Sau đó vào lúc khác: đă bôi nhọ trong giây phút nào, th́ khi đă trải qua giây phút ấy, khoảng thời gian ấy, thời điểm ấy.

 

Trong khi được hỏi: đă bôi nhọ với sự việc nào th́ đang được hỏi về sự việc ấy.

 

Trong khi không được hỏi: không được bất cứ ai đề cập đến.

 

Sự tranh tụng nghĩa là có bốn sự tranh tụng: Sự tranh tụng liên quan đến tranh căi, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách, sự tranh tụng liên quan đến tội, sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ.

 

Và vị tỳ khưu (dầu có) thú nhận lỗi lầm: Tôi đă nói điều rỗng không, tôi đă nói điều dối trá, tôi đă nói điều không thật, tôi đă nói điều tôi không biết.

 

Tội saṅghādisesa: ―(như trên)― cũng v́ thế được gọi là ‘tội saṅghādisesa.’

 

16. Đối với vị đă không thấy vị (tỳ khưu) đang phạm tội pārājika, nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đă thấy ngươi phạm tội pārājika, ngươi không phải là Sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, không c̣n lễ Uposatha, lễ Pavāraṇā, hay là hành sự của hội chúng với ngươi nữa,” th́ phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

17. Đối với vị đă không nghe rằng: “Vị (tỳ khưu ấy) đă phạm tội pārājika,” nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đă nghe ngươi phạm tội pārājika, ngươi không phải là Sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, không c̣n lễ Uposatha, lễ Pavāraṇā, hay là hành sự của hội chúng với ngươi nữa,” th́ phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

18. Đối với vị đă không nghi ngờ rằng: “Vị (tỳ khưu ấy) đă phạm tội pārājika,” nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đă nghi ngờ ngươi phạm tội pārājika, ngươi không phải là Sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, không c̣n lễ Uposatha, lễ Pavāraṇā, hay là hành sự của hội chúng với ngươi nữa,” th́ phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

19. Đối với vị đă không thấy vị (tỳ khưu) đang phạm tội pārājika, nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đă thấy và đă nghe ngươi phạm tội pārājika, ngươi không phải là Sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, không c̣n lễ Uposatha, lễ Pavāraṇā, hay là hành sự của hội chúng với ngươi nữa,” th́ phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

20. Đối với vị đă không thấy vị (tỳ khưu) đang phạm tội pārājika, nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đă thấy và đă nghi ngờ ngươi phạm tội pārājika, ngươi không phải là Sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, ―(như trên) th́ phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

21. Đối với vị đă không thấy vị (tỳ khưu) đang phạm tội pārājika, nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đă thấy, đă nghe, và đă nghi ngờ ngươi phạm tội pārājika, ―(như trên)― th́ phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

22. Đối với vị đă không nghe rằng: “Vị (tỳ khưu ấy) đă phạm tội pārājika,” nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đă nghe và đă nghi ngờ ―(như trên)― “Ta đă nghe và đă thấy ―(như trên)― “Ta đă nghe, đă nghi ngờ, và đă thấy ngươi phạm tội pārājika, ―(như trên)― th́ phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

23. Đối với vị đă không nghi ngờ rằng: “Vị (tỳ khưu ấy) đă phạm tội pārājika,” nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đă nghi ngờ và đă thấy ―(như trên)― “Ta đă nghi ngờ và đă nghe ―(như trên)― “Ta đă nghi ngờ, đă thấy, và đă nghe ngươi phạm tội pārājika, ―(như trên)― th́ phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

24. Đối với vị đă thấy vị (tỳ khưu) đang phạm tội pārājika, nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đă nghe ngươi phạm tội pārājika, ―(như trên)― th́ phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

25. Đối với vị đă thấy vị (tỳ khưu) đang phạm tội pārājika, nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đă nghi ngờ ngươi phạm tội pārājika, ―(như trên)― nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đă nghe và đă nghi ngờ ngươi phạm tội pārājika, ―(như trên)― th́ phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

26. Đối với vị đă nghe rằng: “Vị (tỳ khưu ấy) đă phạm tội pārājika,” nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đă nghi ngờ ―(như trên)― “Ta đă thấy ―(như trên)― “Ta đă nghi ngờ và đă thấy ngươi phạm tội pārājika, ―(như trên)― th́ phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

27. Đối với vị đă nghi ngờ rằng: “Vị (tỳ khưu ấy) đă phạm tội pārājika,” nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đă thấy ngươi phạm tội pārājika, ―(như trên)― “Ta đă nghe ngươi phạm tội pārājika, ―(như trên)― “Ta đă thấy và đă nghe ngươi phạm tội pārājika, ―(như trên)― th́ phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

28. Đối với vị đă thấy vị (tỳ khưu) đang phạm tội pārājika, (nhưng) hoài nghi về việc đă thấy, không tin việc đă thấy, không nhớ việc đă thấy, quên đi việc đă thấy, ―(như trên)― (nhưng) hoài nghi về việc đă nghe, không tin việc đă nghe, không nhớ việc đă nghe, quên đi việc đă nghe, ―(như trên)― (nhưng) hoài nghi về việc đă nghi ngờ, không tin việc đă nghi ngờ, không nhớ việc đă nghi ngờ, quên đi việc đă nghi ngờ, nếu buộc tội vị ấy rằng: “Ta đă nghi ngờ và đă thấy ―(như trên)― Ta đă nghi ngờ và đă nghe ―(như trên)― Ta đă nghi ngờ, đă thấy, và đă nghe ngươi phạm tội pārājika, ngươi không phải là Sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, không c̣n lễ Uposatha, lễ Pavāraṇā, hay là hành sự của hội chúng với ngươi nữa,” th́ phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

29. Đối với vị đă không thấy vị (tỳ khưu) đang phạm tội pārājika, nếu cho người buộc tội vị ấy rằng: “Ngươi đă bị thấy là đă phạm tội pārājika, ngươi không phải là Sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, không c̣n lễ Uposatha, lễ Pavāraṇā, hay là hành sự của hội chúng với ngươi nữa,” th́ phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

30. Đối với vị đă không nghe rằng: “Vị (tỳ khưu ấy) đă phạm tội pārājika,” ―(như trên)― Đối với vị đă không nghi ngờ rằng: “Vị (tỳ khưu ấy) đă phạm tội pārājika,” nếu cho người buộc tội vị ấy rằng: “Ngươi đă bị nghi ngờ là đă phạm tội pārājika, ngươi không phải là Sa-môn, ―(như trên)― th́ phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

31. Đối với vị đă không thấy vị (tỳ khưu) đang phạm tội pārājika, nếu cho người buộc tội vị ấy rằng: “Ngươi đă bị thấy và đă bị nghe ―(như trên)― Ngươi đă bị thấy và đă bị nghi ngờ ―(như trên)― Ngươi đă bị thấy, đă bị nghe, và đă bị nghi ngờ là đă phạm tội pārājika, ―(như trên)― Đối với vị đă không nghe rằng: “Vị (tỳ khưu ấy) đă phạm tội pārājika,” nếu cho người buộc tội vị ấy rằng: “Ngươi đă bị nghe và đă bị nghi ngờ ―(như trên)― Ngươi đă bị nghe và đă bị thấy ―(như trên)― Ngươi đă bị nghe, đă bị nghi ngờ, và đă bị thấy ―(như trên)― Đối với vị đă không nghi ngờ rằng: “Vị (tỳ khưu ấy) đă phạm tội pārājika,” nếu cho người buộc tội vị ấy rằng: “Ngươi đă bị nghi ngờ và đă bị thấy ―(như trên)― Ngươi đă bị nghi ngờ và đă bị nghe ―(như trên)― Ngươi đă bị nghi ngờ, đă bị thấy, và đă bị nghe là đă phạm tội pārājika, ngươi không phải là Sa-môn, ―(như trên)― th́ phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

32. Đối với vị đă thấy vị (tỳ khưu) đang phạm tội pārājika, nếu cho người buộc tội vị ấy rằng: “Ngươi đă bị nghe ―(như trên)― nếu cho người buộc tội vị ấy rằng: “Ngươi đă bị nghi ngờ ―(như trên)― nếu cho người buộc tội vị ấy rằng: “Ngươi đă bị nghe và đă bị nghi ngờ là đă phạm tội pārājika, ngươi không phải là Sa-môn, ―(như trên)― th́ phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

33. Đối với vị đă nghe rằng: “Vị (tỳ khưu ấy) đă phạm tội pārājika,” ―(như trên)― Đối với vị đă nghi ngờ rằng: “Vị (tỳ khưu ấy) đă phạm tội pārājika,” nếu cho người buộc tội vị ấy rằng: “Ngươi đă bị thấy ―(như trên)― nếu cho người buộc tội vị ấy rằng: “Ngươi đă bị nghe ―(như trên)― nếu cho người buộc tội vị ấy rằng: “Ngươi đă bị thấy và đă bị nghe là đă phạm tội pārājika, ngươi không phải là Sa-môn, ―(như trên)― th́ phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

34. Đối với vị đă thấy vị (tỳ khưu) đang phạm tội pārājika, (nhưng) hoài nghi về việc đă thấy, không tin việc đă thấy, không nhớ việc đă thấy, quên đi việc đă thấy; ―(như trên)― (nhưng) hoài nghi về việc đă nghe, không tin việc đă nghe, không nhớ việc đă nghe, quên đi việc đă nghe; ―(như trên)― (nhưng) hoài nghi về việc đă nghi ngờ, không tin việc đă nghi ngờ, không nhớ việc đă nghi ngờ, quên đi việc đă nghi ngờ, nếu cho người buộc tội vị ấy rằng: “Ngươi đă bị nghi ngờ và đă bị thấy ―(như trên)― “Ngươi đă bị nghi ngờ và đă bị nghe ―(như trên)― “Ngươi đă bị nghi ngờ, đă bị thấy, và đă bị nghe là đă phạm tội pārājika, ngươi không phải là Sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, không c̣n lễ Uposatha, lễ Pavāraṇā, hay là hành sự của hội chúng với ngươi nữa,” th́ phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

35. Có sự ghi nhận là trong sạch về vị không trong sạch. Có sự ghi nhận là không trong sạch về vị trong sạch.Có sự ghi nhận là không trong sạch về vị không trong sạch. Có sự ghi nhận là trong sạch về vị trong sạch.

 

36. Vị không trong sạch là người đă vi phạm bất cứ tội pārājika nào. Nếu trong khi có sự ghi nhận vị ấy là trong sạch, khi chưa thỉnh ư (để buộc tội), có ư định loại trừ, rồi nói lời (buộc tội) th́ phạm tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa.

 

37. Vị không trong sạch là người đă vi phạm bất cứ tội pārājika nào. Nếu trong khi có sự ghi nhận vị ấy là trong sạch, khi đă thỉnh ư (để buộc tội), có ư định loại trừ, rồi nói lời (buộc tội) th́ phạm tội saṅghādisesa.

 

38. Vị không trong sạch là người đă vi phạm bất cứ tội pārājika nào. Nếu trong khi có sự ghi nhận vị ấy là trong sạch, khi chưa thỉnh ư (để buộc tội), có ư định lăng mạ, rồi nói lời (mắng nhiếc) th́ phạm tội dukkaṭa với tội nói lời mắng nhiếc (tội pācittiya thứ nh́).

 

39. Vị không trong sạch là người đă vi phạm bất cứ tội pārājika nào. Nếu trong khi có sự ghi nhận vị ấy là trong sạch, khi đă thỉnh ư (để buộc tội), có ư định lăng mạ, rồi nói lời (mắng nhiếc) th́ phạm tội nói lời mắng nhiếc.

 

40. Vị trong sạch là người không vi phạm bất cứ tội pārājika nào. Nếu trong khi có sự ghi nhận vị ấy là không trong sạch, khi chưa thỉnh ư (để buộc tội), có ư định loại trừ, rồi nói lời (buộc tội) th́ phạm tội dukkaṭa.

 

41. Vị trong sạch là người không vi phạm bất cứ tội pārājika nào. Nếu trong khi có sự ghi nhận vị ấy là không trong sạch, khi đă thỉnh ư (để buộc tội), có ư định loại trừ, rồi nói lời (buộc tội) th́ vô tội.

 

42. Vị trong sạch là người không vi phạm bất cứ tội pārājika nào. Nếu trong khi có sự ghi nhận vị ấy là không trong sạch, khi chưa thỉnh ư (để buộc tội), có ư định lăng mạ, rồi nói lời (mắng nhiếc) th́ phạm tội dukkaṭa với tội nói lời mắng nhiếc.

 

43. Vị trong sạch là người không vi phạm bất cứ tội pārājika nào. Nếu trong khi có sự ghi nhận vị ấy là không trong sạch, khi đă thỉnh ư (để buộc tội), có ư định lăng mạ, rồi nói lời (mắng nhiếc) th́ phạm tội nói lời mắng nhiếc.

 

44. Vị không trong sạch là người đă vi phạm bất cứ tội pārājika nào. Nếu trong khi có sự ghi nhận vị ấy là không trong sạch, khi chưa thỉnh ư (để buộc tội), có ư định loại trừ, rồi nói lời (buộc tội) th́ phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)― khi đă thỉnh ư (để buộc tội), có ư định loại trừ, rồi nói lời (buộc tội) th́ vô tội. ―(như trên)― khi chưa thỉnh ư (để buộc tội), có ư định lăng mạ, rồi nói lời (mắng nhiếc) th́ phạm tội dukkaṭa với tội nói lời mắng nhiếc. ―(như trên)― khi đă thỉnh ư (để buộc tội), có ư định lăng mạ, rồi nói lời (mắng nhiếc) th́ phạm tội nói lời mắng nhiếc.

 

45. Vị trong sạch là người không vi phạm bất cứ tội pārājika nào. Nếu trong khi có sự ghi nhận vị ấy là trong sạch, khi chưa thỉnh ư (để buộc tội), có ư định loại trừ, rồi nói lời (buộc tội) th́ phạm tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa. ―(như trên)― khi đă thỉnh ư (để buộc tội), có ư định loại trừ, rồi nói lời (buộc tội) th́ phạm tội saṅghādisesa. ―(như trên)― khi chưa thỉnh ư (để buộc tội), có ư định lăng mạ, rồi nói lời (mắng nhiếc) th́ phạm tội dukkaṭa với tội nói lời mắng nhiếc. ―(như trên)― khi đă thỉnh ư (để buộc tội), có ư định lăng mạ, rồi nói lời (mắng nhiếc) th́ phạm tội nói lời mắng nhiếc.

 

46. Vị có sự ghi nhận là không trong sạch về vị trong sạch, vị có sự ghi nhận là không trong sạch về vị không trong sạch, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Dứt điều học thứ nhất về vị xấu xa sân hận.

 

--ooOoo--

 

 

3. 9. ĐIỀU HỌC THỨ NH̀ VỀ VỊ XẤU XA SÂN HẬN

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka trong lúc đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa đă nh́n thấy con dê đực đang t́nh tự với con dê cái, sau khi nh́n thấy đă nói như vầy: - “Này các đại đức, giờ chúng ta đặt tên con dê đực này là Dabba Mallaputta và đặt tên con dê cái này là tỳ khưu ni Mettiyā, rồi chúng ta sẽ phát biểu như vầy: ‘Này các đại đức, trước đây chúng tôi đă nói về Dabba Mallaputta từ điều đă được nghe; giờ đây chúng tôi đă đích thân thấy được đương sự đang t́nh tự với tỳ khưu ni Mettiyā.’” Các vị ấy đă đặt tên con dê đực ấy là Dabba Mallaputta và đă đặt tên con dê cái ấy là tỳ khưu ni Mettiyā.

 

Các vị ấy đă kể lại cho các tỳ khưu rằng: - “Này các đại đức, trước đây chúng tôi đă nói về Dabba Mallaputta từ điều đă được nghe; giờ đây chúng tôi đă đích thân thấy được đương sự đang t́nh tự với tỳ khưu ni Mettiyā.” Các tỳ khưu đă nói như vầy: - “Này các đại đức, chớ có nói như thế. Đại đức Dabba Mallaputta sẽ không làm như thế.”

 

2. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đă hỏi đại đức Dabba Mallaputta rằng: - “Này Dabba, ngươi có nhớ ngươi là kẻ đă hành động giống như điều các tỳ khưu này đă nói không?” - “Bạch ngài, con như thế nào th́ đức Thế Tôn biết mà.” Đến lần thứ nh́, đức Thế Tôn ―(như trên)― Đến lần thứ ba, đức Thế Tôn đă hỏi đại đức Dabba Mallaputta rằng: - “Này Dabba, ngươi có nhớ ngươi là kẻ đă hành động giống như điều các tỳ khưu này đă nói không?” - “Bạch ngài, con như thế nào th́ đức Thế Tôn biết mà.” - “Này Dabba, các vị (ḍng dơi) Dabba không phủ nhận như thế. Nếu ngươi có làm, hăy nói: ‘Có làm;’ nếu ngươi không làm, hăy nói: ‘Không làm.’” - “Bạch ngài, từ khi con được sanh ra, con không bao giờ thấy ḿnh là kẻ tầm cầu việc đôi lứa ngay cả trong lúc ngủ mơ, huống ǵ là tỉnh thức.” Sau đó, đức Thế Tôn đă bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, như vậy th́ các ngươi hăy tra hỏi các tỳ khưu này.” Nói xong điều ấy, đức Thế Tôn đă từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào trú xá.

 

3. Sau đó, các tỳ khưu ấy đă tra hỏi các vị tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka: - “Này các đại đức, có phải các vị nắm lấy sự kiện nhỏ nhặt nào đó thuộc về cuộc tranh tụng có quan hệ khác biệt rồi bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta về tội pārājika?” - “Này các đại đức, đúng vậy.” Các tỳ khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka lại nắm lấy sự kiện nhỏ nhặt nào đó thuộc về cuộc tranh tụng có quan hệ khác biệt rồi bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta về tội pārājika?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi nắm lấy sự kiện nhỏ nhặt nào đó thuộc về cuộc tranh tụng có quan hệ khác biệt rồi bôi nhọ Dabba Mallaputta về tội pārājika, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: - “Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi lại nắm lấy sự kiện nhỏ nhặt nào đó thuộc về cuộc tranh tụng có quan hệ khác biệt rồi bôi nhọ Dabba Mallaputta về tội pārājika vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào xấu xa, sân hận, bất b́nh vị tỳ khưu (khác) rồi nắm lấy sự kiện nhỏ nhặt nào đó thuộc về cuộc tranh tụng có quan hệ khác biệt và bôi nhọ về tội pārājika (nghĩ rằng): ‘Chắc là ta có thể loại vị ấy ra khỏi Phạm hạnh này.’ Sau đó vào lúc khác, trong khi được hỏi hay trong khi không được hỏi, và cuộc tranh tụng ấy là có quan hệ khác biệt hẳn, sự kiện nhỏ nhặt nào đó đă được nắm lấy, và vị tỳ khưu (dầu có) thú nhận lỗi lầm (cũng) phạm tội saṅghādisesa.

 

4. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

Vị tỳ khưu: là vị tỳ khưu khác.

 

Xấu xa, sân hận: bị nổi giận, không được hài ḷng, không được thỏa măn, có tâm giận dữ, nảy sanh ḷng cay cú.

 

Bất b́nh: là bị bất b́nh do sự nổi giận ấy, do sự sân hận ấy, do sự không được hài ḷng ấy, do sự không được thỏa măn ấy.

 

Thuộc về cuộc tranh tụng có quan hệ khác biệt: có quan hệ khác biệt về tội hoặc là có quan hệ khác biệt về tranh tụng. Thế nào là cuộc tranh tụng có quan hệ khác biệt đối với cuộc tranh tụng? Cuộc tranh tụng liên quan đến tranh căi là có quan hệ khác biệt đối với cuộc tranh tụng liên quan đến khiển trách, đối với cuộc tranh tụng liên quan đến tội, đối với cuộc tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ. Cuộc tranh tụng liên quan đến khiển trách là có quan hệ khác biệt đối với cuộc tranh tụng liên quan đến tội, đối với cuộc tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ, đối với cuộc tranh tụng liên quan đến tranh căi. Cuộc tranh tụng liên quan đến tội là có quan hệ khác biệt đối với cuộc tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ, đối với cuộc tranh tụng liên quan đến tranh căi, đối với cuộc tranh tụng liên quan đến khiển trách. Cuộc tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ là có quan hệ khác biệt đối với cuộc tranh tụng liên quan đến tranh căi, đối với cuộc tranh tụng liên quan đến khiển trách, đối với cuộc tranh tụng liên quan đến tội. Như thế là cuộc tranh tụng có quan hệ khác biệt đối với cuộc tranh tụng.

 

Thế nào là cuộc tranh tụng có cùng quan hệ đối với cuộc tranh tụng? Cuộc tranh tụng liên quan đến tranh căi là có cùng quan hệ đối với cuộc tranh tụng liên quan đến tranh căi. Cuộc tranh tụng liên quan đến khiển trách là có cùng quan hệ đối với cuộc tranh tụng liên quan đến khiển trách. Cuộc tranh tụng liên quan đến tội có thể là có cùng quan hệ, có thể là có quan hệ khác biệt đối với cuộc tranh tụng liên quan đến tội.

 

Thế nào là cuộc tranh tụng liên quan đến tội có quan hệ khác biệt đối với cuộc tranh tụng liên quan đến tội? Tội pārājika về việc đôi lứa là có quan hệ khác biệt đối với tội pārājika về trộm cắp, đối với tội pārājika về giết người, đối với tội pārājika về pháp thượng nhân. Tội pārājika về trộm cắp là có quan hệ khác biệt đối với tội pārājika về giết người, đối với tội pārājika về pháp thượng nhân, đối với tội pārājika về việc đôi lứa. Tội pārājika về giết người là có quan hệ khác biệt đối với tội pārājika về pháp thượng nhân, đối với tội pārājika về việc đôi lứa, đối với tội pārājika về trộm cắp. Tội pārājika về pháp thượng nhân là có quan hệ khác biệt đối với tội pārājika về việc đôi lứa, đối với tội pārājika về trộm cắp, đối với tội pārājika về giết người. Như thế là cuộc tranh tụng liên quan đến tội có quan hệ khác biệt đối với cuộc tranh tụng liên quan đến tội.

 

Thế nào là cuộc tranh tụng liên quan đến tội có cùng quan hệ đối với cuộc tranh tụng liên quan đến tội? Tội pārājika về việc đôi lứa là có cùng quan hệ đối với tội pārājika về việc đôi lứa. Tội pārājika về trộm cắp là có cùng quan hệ đối với tội pārājika về trộm cắp. Tội pārājika về giết người là có cùng quan hệ đối với tội pārājika về giết người. Tội pārājika về pháp thượng nhân là có cùng quan hệ đối với tội pārājika về pháp thượng nhân. Như thế là cuộc tranh tụng liên quan đến tội có cùng quan hệ đối với cuộc tranh tụng liên quan đến tội.

 

Cuộc tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ là có cùng quan hệ đối với cuộc tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ. Như thế là cuộc tranh tụng có cùng quan hệ đối với cuộc tranh tụng.

 

 Nắm lấy sự kiện nhỏ nhặt nào đó: nhỏ nhặt nghĩa là mười điều nhỏ nhặt: điều nhỏ nhặt về sự xuất thân, điều nhỏ nhặt về tên gọi, điều nhỏ nhặt về ḍng họ, điều nhỏ nhặt về đặc điểm, điều nhỏ nhặt về tội vi phạm, điều nhỏ nhặt về b́nh bát, điều nhỏ nhặt về y phục, điều nhỏ nhặt về thầy tế độ, điều nhỏ nhặt về thầy dạy học, điều nhỏ nhặt về chỗ trú ngụ.

 

Điều nhỏ nhặt về sự xuất thân nghĩa là có vị (xuất thân) Sát-đế-lỵ được thấy là đang phạm tội pārājika, sau khi nh́n thấy vị (xuất thân) Sát-đế-lỵ khác lại buộc tội rằng: “Ngươi là vị (xuất thân) Sát-đế-lỵ phạm tội pārājika đă bị ta thấy, ngươi không phải là Sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, với ngươi không c̣n lễ Uposatha, lễ Pavāraṇā, hay là hành sự của hội chúng nữa” th́ phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói. Có vị (xuất thân) Bà-la-môn được thấy ―(như trên)― Có vị (xuất thân) thương buôn được thấy ―(như trên)― Có vị (xuất thân) hạng cùng đinh được thấy là đang phạm tội pārājika, sau khi nh́n thấy vị (xuất thân) hạng cùng đinh khác lại buộc tội rằng: “Ngươi là vị (xuất thân) hạng cùng đinh phạm tội pārājika đă bị ta thấy, ngươi không phải là Sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, ―(như trên)― th́ phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

Điều nhỏ nhặt về tên gọi nghĩa là có vị tên Buddharakkhita được thấy ―(như trên)― Có vị tên Dhammarakkhita được thấy ―(như trên)― Có vị tên Saṅgharakkhita được thấy là đang phạm tội pārājika, sau khi nh́n thấy vị tên Saṅgharakkhita khác lại buộc tội rằng: “Ngươi là vị tên Saṅgharakkhita phạm tội pārājika đă bị ta thấy, ngươi không phải là Sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, ―(như trên)― th́ phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

Điều nhỏ nhặt về ḍng họ nghĩa là có vị họ Gotama được thấy ―(như trên)― Có vị họ Moggallāna được thấy ―(như trên)― Có vị họ Kaccāyana được thấy ―(như trên)― Có vị họ Vāsiṭṭha được thấy là đang phạm tội pārājika, sau khi nh́n thấy vị họ Vāsiṭṭha khác lại buộc tội rằng: “Ngươi là vị họ Vāsiṭṭha phạm tội pārājika đă bị ta thấy, ngươi không phải là Sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, ―(như trên)― th́ phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

Điều nhỏ nhặt về đặc điểm nghĩa là có vị cao được thấy ―(như trên)― Có vị lùn được thấy ―(như trên)― Có vị đen được thấy ―(như trên)― Có vị trắng được thấy là đang phạm tội pārājika, sau khi nh́n thấy vị trắng khác lại buộc tội rằng: “Ngươi là vị trắng phạm tội pārājika đă bị ta thấy, ngươi không phải là Sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, ―(như trên)― th́ phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

Điều nhỏ nhặt về tội vi phạm nghĩa là có vị được thấy là đang vi phạm tội nhẹ, nếu buộc tội vị ấy về tội pārājika rằng: “Ngươi không phải là Sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, ―(như trên)― th́ phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

Điều nhỏ nhặt về b́nh bát nghĩa là có vị mang b́nh bát đồng được thấy ―(như trên)― Có vị mang b́nh bát đất được thấy ―(như trên)― Có vị mang b́nh bát tráng men được thấy ―(như trên)― Có vị mang b́nh bát đất loại b́nh thường được thấy là đang phạm tội pārājika, sau khi nh́n thấy vị khác (cũng) mang b́nh bát đất loại b́nh thường lại buộc tội rằng: “Ngươi là vị mang b́nh bát đất loại b́nh thường phạm tội pārājika đă bị ta thấy, ngươi không phải là Sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, ―(như trên)― th́ phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

 Điều nhỏ nhặt về y phục nghĩa là có vị mặc y paṃsukūla được thấy ―(như trên)― Có vị mặc y của gia chủ được thấy là đang phạm tội pārājika, sau khi nh́n thấy vị khác (cũng) mặc y của gia chủ lại buộc tội rằng: “Ngươi là vị mặc y của gia chủ phạm tội pārājika đă bị ta thấy, ngươi không phải là Sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, ―(như trên)― th́ phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

Điều nhỏ nhặt về thầy tế độ nghĩa là có người đệ tử của vị tên (như vầy) được thấy là đang phạm tội pārājika, sau khi nh́n thấy người đệ tử khác của vị tên (như vầy) lại buộc tội rằng: “Ngươi là đệ tử của vị tên (như vầy) phạm tội pārājika đă bị ta thấy, ngươi không phải là Sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, ―(như trên)― th́ phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

Điều nhỏ nhặt về thầy dạy học nghĩa là có người học tṛ của vị tên (như vầy) được thấy là đang phạm tội pārājika, sau khi nh́n thấy người học tṛ khác của vị tên (như vầy) lại buộc tội rằng: “Ngươi là học tṛ của vị tên (như vầy) phạm tội pārājika đă bị ta thấy, ngươi không phải là Sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, ―(như trên)― th́ phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

Điều nhỏ nhặt về chỗ trú ngụ nghĩa là có vị ngụ ở chỗ trú ngụ của người tên (như vầy) được thấy là đang phạm tội pārājika, sau khi nh́n thấy vị khác (cũng) ngụ ở chỗ trú ngụ của người tên (như vầy) lại buộc tội rằng: “Ngươi là vị ngụ ở chỗ trú ngụ của người tên (như vầy) phạm tội pārājika đă bị ta thấy, ngươi không phải là Sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, với ngươi không c̣n lễ Uposatha, lễ Pavāraṇā, hay là hành sự của hội chúng nữa,” th́ phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

Về tội pārājika: về bất cứ điều nào thuộc về bốn điều.

 

Bôi nhọ: hoặc là buộc tội, hoặc là cho người buộc tội.

 

Chắc là ta có thể loại trừ vị ấy ra khỏi Phạm hạnh này: Ta có thể loại trừ (vị ấy) ra khỏi trạng thái tỳ khưu, ta có thể loại trừ (vị ấy) ra khỏi pháp Sa-môn, ta có thể loại trừ (vị ấy) ra khỏi giới uẩn, ta có thể loại trừ (vị ấy) ra khỏi đức tính khắc khổ.

 

Sau đó vào lúc khác: đă bôi nhọ trong giây phút nào, th́ khi đă trải qua giây phút ấy, khoảng thời gian ấy, thời điểm ấy.

 

Trong khi được hỏi: đă bôi nhọ với sự việc nào, th́ đang được hỏi về sự việc ấy.

 

Trong khi không được hỏi: không được bất cứ ai đề cập đến.

 

Sự tranh tụng nghĩa là có bốn sự tranh tụng: Sự tranh tụng liên quan đến tranh căi, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách, sự tranh tụng liên quan đến tội, sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ.

 

Sự kiện nhỏ nhặt nào đó đă được nắm lấy: điều nhỏ nhặt nào đó trong mười điều nhỏ nhặt ấy đă được nắm lấy.

 

 Và vị tỳ khưu (dầu có) thú nhận lỗi lầm: Tôi đă nói điều rỗng không, tôi đă nói điều dối trá, tôi đă nói điều không thật, tôi đă nói điều tôi không biết.

 

Tội saṅghādisesa: ―(như trên)― cũng v́ thế được gọi là “tội saṅghādisesa.”

 

5. Vị tỳ khưu đang phạm tội saṅghādisesa bị nh́n thấy. (Nguyên cáo) dựa trên (cơ sở) tội saṅghādisesa có sự ghi nhận là tội saṅghādisesa. Nếu buộc tội vị ấy với tội pārājika (nói rằng): “Ngươi không phải là Sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, với ngươi không c̣n lễ Uposatha, lễ Pavāraṇā, hay là hành sự của hội chúng nữa,” như vậy là có quan hệ khác biệt về tội và điều nhỏ nhặt đă được nắm lấy; phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

6. Vị tỳ khưu đang phạm tội saṅghādisesa bị nh́n thấy. (Nguyên cáo) dựa trên (cơ sở) tội saṅghādisesa có sự ghi nhận là tội thullaccaya ―(như trên)― có sự ghi nhận là tội pācittiya ―(như trên)― có sự ghi nhận là tội pāṭidesanīya ―(như trên)― có sự ghi nhận là tội dukkaṭa ―(như trên)― có sự ghi nhận là tội dubbhāsita. Nếu buộc tội vị ấy với tội pārājika (nói rằng): “Ngươi không phải là Sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, ―(như trên)― như vậy là có quan hệ khác biệt về tội và điều nhỏ nhặt đă được nắm lấy; phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

7. Vị tỳ khưu đang phạm tội thullaccaya ―(như trên)― tội pācittiya ―(như trên)― tội pāṭidesanīya ―(như trên)― tội dukkaṭa ―(như trên)― tội dubbhāsita bị nh́n thấy. (Nguyên cáo) dựa trên (cơ sở) tội dubbhāsita có sự ghi nhận là tội dubbhāsita. Nếu buộc tội vị ấy với tội pārājika (nói rằng): “Ngươi không phải là Sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, ―(như trên)― như vậy là có quan hệ khác biệt về tội và điều nhỏ nhặt đă được nắm lấy; phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

8. Vị tỳ khưu đang phạm tội dubbhāsita bị nh́n thấy. (Nguyên cáo) dựa trên (cơ sở) tội dubbhāsita có sự ghi nhận là tội saṅghādisesa, ―(như trên)― dựa trên (cơ sở) tội dubbhāsita có sự ghi nhận là tội thullaccaya, tội pācittiya, tội pāṭidesanīya, tội dukkaṭa. Nếu buộc tội vị ấy với tội pārājika (nói rằng): “Ngươi không phải là Sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, với ngươi không c̣n lễ Uposatha, lễ Pavāraṇā, hay là hành sự của hội chúng nữa,” như vậy là có quan hệ khác biệt về tội và điều nhỏ nhặt đă được nắm lấy; phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

Sau khi thực hiện cho mỗi một nhân tố nên thành lập sự luân phiên.

 

9. Vị tỳ khưu đang phạm tội saṅghādisesa bị nh́n thấy. (Nguyên cáo) dựa trên (cơ sở) tội saṅghādisesa có sự ghi nhận là tội saṅghādisesa. Nếu cho người buộc tội vị ấy với tội pārājika (nói rằng): “Ngươi không phải là Sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, với ngươi không c̣n lễ Uposatha, lễ Pavāraṇā, hay là hành sự của hội chúng nữa,” như vậy là có quan hệ khác biệt về tội và điều nhỏ nhặt đă được nắm lấy; phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

10. Vị tỳ khưu đang phạm tội saṅghādisesa bị nh́n thấy. (Nguyên cáo) trên (cơ sở) tội saṅghādisesa có sự ghi nhận là tội thullaccaya ... có sự ghi nhận là tội pācittiya ... có sự ghi nhận là tội pāṭidesanīya ... có sự ghi nhận là tội dukkaṭa ... có sự ghi nhận là tội dubbhāsita. Nếu cho người buộc tội vị ấy với tội pārājika (nói rằng): “Ngươi không phải là Sa-môn,ngươi không phải là Thích tử, ―(như trên)― như vậy là có quan hệ khác biệt về tội và điều nhỏ nhặt đă được nắm lấy; phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

11. Vị tỳ khưu đang phạm tội thullaccaya bị nh́n thấy. (Nguyên cáo) dựa rên (cơ sở) tội thullaccaya có sự ghi nhận là tội thullaccaya ... có sự ghi nhận là tội pācittiya ... có sự ghi nhận là tội pāṭidesanīya ... có sự ghi nhận là tội dukkaṭa ... có sự ghi nhận là tội dubbhāsita ... có sự ghi nhận là tội saṅghādisesa. Nếu cho người buộc tội vị ấy với tội pārājika (nói rằng): “Ngươi không phải là Sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, ―(như trên)― như vậy là có quan hệ khác biệt về tội và điều nhỏ nhặt đă được nắm lấy; phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

12. Vị tỳ khưu đang phạm tội pācittiya ... tội pāṭidesanīya ... tội dukkaṭa ... tội dubbhāsita bị nh́n thấy. (Nguyên cáo) dựa trên (cơ sở) tội dubbhāsita có sự ghi nhận là tội dubbhāsita ―(như trên)― dựa trên (cơ sở) tội dubbhāsita có sự ghi nhận là tội saṅghādisesa ... có sự ghi nhận là tội thullaccaya ... có sự ghi nhận là tội pācittiya ... có sự ghi nhận là tội pāṭidesanīya ... có sự ghi nhận là tội dukkaṭa. Nếu cho người buộc tội vị ấy với tội pārājika (nói rằng): “Ngươi không phải là Sa-môn, ngươi không phải là Thích tử, với ngươi không c̣n lễ Uposatha, lễ Pavāraṇā, hay là hành sự của hội chúng nữa,” như vậy là có quan hệ khác biệt về tội và điều nhỏ nhặt đă được nắm lấy; phạm tội saṅghādisesa theo từng lời nói.

 

13. Vị buộc tội hoặc bảo (người khác) buộc tội theo như sự nhận biết, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Dứt điều học thứ nh́ về vị xấu xa sân hận.

 

--ooOoo--

 

 

3. 10. ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT VỀ CHIA RẼ HỘI CHÚNG

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, Devadatta đă đi đến gặp Kokālika, Kaṭamorakatissaka con trai của Khaṇḍadevī, và Samuddadatto; sau khi đến đă nói với Kokālika, Kaṭamorakatissaka con trai của Khaṇḍadevī, và Samuddadatto điều này: - “Này các đại đức, hăy đi. Chúng ta sẽ tiến hành việc chia rẽ hội chúng của Sa-môn Gotama, tức là việc phân chia quyền lănh đạo.” Khi được nói như thế, Kokālika đă nói với Devadatta điều này: - “Này đại đức, Sa-môn Gotama thật sự có đại thần lực, có đại oai lực. Làm thế nào chúng ta sẽ tiến hành việc chia rẽ hội chúng của Sa-môn Gotama, tức là việc phân chia quyền lănh đạo được?” - “Này các đại đức, hăy đi. Chúng ta sẽ đi đến gặp Sa-môn Gotama và yêu cầu năm sự việc:

 

‘Bạch ngài, đức Thế Tôn là người khen ngợi sự ít ham muốn, sự tự biết đủ, sự đoạn trừ, sự từ bỏ, sự hoan hỷ, sự giảm thiểu, sự ra sức nỗ lực bằng nhiều phương thức. Bạch ngài, đây là năm sự việc đưa đến sự ít ham muốn, sự tự biết đủ, sự đoạn trừ, sự từ khước, sự hoan hỷ, sự giảm thiểu, sự ra sức nỗ lực bằng nhiều phương thức.

 

Bạch ngài, lành thay các tỳ khưu nên là các vị sống ở rừng cho đến trọn đời; vị nào cư ngụ trong làng th́ vị ấy phạm tội.

 

 Cho đến trọn đời là các vị khất thực; vị nào hoan hỷ sự thỉnh mời th́ vị ấy phạm tội.

 

Cho đến trọn đời là các vị mặc y (may bằng) vải bị quăng bỏ, vị nào hoan hỷ y của gia chủ th́ vị ấy phạm tội.

 

Cho đến trọn đời là các vị sống ở gốc cây; vị nào đi đến mái che th́ vị ấy phạm tội.

 

Cho đến trọn đời không ăn cá thịt; vị nào ăn cá thịt th́ vị ấy phạm tội.’

 

Sa-môn Gotama sẽ không cho phép năm sự việc này. Và chúng ta đây sẽ công bố cho dân chúng biết về năm sự việc này.” - “Này đại đức, với năm sự việc này th́ có thể tiến hành việc chia rẽ hội chúng của Sa-môn Gotama, tức là việc phân chia quyền lănh đạo. Này đại đức, bởi v́ dân chúng có niềm tin với khổ hạnh.”

 

2. Sau đó, Devadatta cùng phe cánh đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, Devadatta đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, đức Thế Tôn là người khen ngợi sự ít ham muốn, sự tự biết đủ, sự đoạn trừ, sự từ bỏ, sự hoan hỷ, sự giảm thiểu, sự ra sức nỗ lực bằng nhiều phương thức. Bạch ngài, đây là năm sự việc đưa đến sự ít ham muốn, sự tự biết đủ, sự đoạn trừ, sự từ khước, sự hoan hỷ, sự giảm thiểu, sự ra sức nỗ lực bằng nhiều phương thức.

 

Bạch ngài, lành thay các tỳ khưu nên là các vị sống ở rừng cho đến trọn đời; vị nào cư ngụ trong làng th́ vị ấy phạm tội. Cho đến trọn đời là các vị khất thực; vị nào hoan hỷ sự thỉnh mời th́ vị ấy phạm tội. Cho đến trọn đời là các vị mặc y (may bằng) vải bị quăng bỏ, vị nào hoan hỷ y của gia chủ th́ vị ấy phạm tội. Cho đến trọn đời là các vị sống ở gốc cây; vị nào đi đến mái che th́ vị ấy phạm tội. Cho đến trọn đời không ăn cá thịt; vị nào ăn cá thịt th́ vị ấy phạm tội.” - “Này Devadatta, thôi đi. Vị nào muốn th́ hăy trở thành vị sống ở rừng; vị nào muốn th́ cứ cư ngụ ở trong làng. Vị nào muốn th́ hăy trở thành vị khất thực; vị nào muốn th́ cứ hoan hỷ việc thỉnh mời. Vị nào muốn th́ hăy là vị mặc y (may bằng) vải bị quăng bỏ; vị nào muốn th́ cứ hoan hỷ y của gia chủ. Này Devadatta, Ta cho phép chỗ trú ngụ là gốc cây trong tám tháng. Cá thịt là thanh tịnh với ba điều kiện là: không thấy, không nghe, và không nghi ngờ.” Khi ấy, Devadatta (biết rằng): “Đức Thế Tôn không cho phép năm sự việc này,” trở nên mừng rỡ, phấn chấn, cùng phe cánh từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.

 

3. Sau đó, Devadatta cùng phe cánh đă đi vào thành Rājagaha công bố cho dân chúng biết về năm sự việc: - “Này các đạo hữu, chúng tôi đă đi đến gặp Sa-môn Gotama và đă yêu cầu năm sự việc: ‘Bạch ngài, đức Thế Tôn là người khen ngợi sự ít ham muốn, ―(như trên)― Cho đến trọn đời không ăn cá thịt; vị nào ăn cá thịt th́ vị ấy phạm tội.’ Sa-môn Gotama không cho phép năm sự việc này. C̣n chúng tôi sẽ thọ tŕ và thực hành năm sự việc này.” Ở nơi ấy, những người nào không có đức tin, không mộ đạo, kém sáng suốt, những người ấy đă nói như vầy: - “Các Sa-môn Thích tử này đúng là có sự từ khước, có sở hành đoạn trừ; c̣n Sa-môn Gotama là kẻ xa hoa nên nghĩ đến việc xa hoa.” C̣n những người nào có đức tin, mộ đạo, sáng suốt, những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao Devadatta lại ra sức việc chia rẽ hội chúng của đức Thế Tôn, tức là việc phân chia quyền lănh đạo?”

 

4. Các tỳ khưu đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao Devadatta lại ra sức chia rẽ hội chúng của đức Thế Tôn, tức là việc phân chia quyền lănh đạo?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này Devadatta, nghe nói ngươi ra sức chia rẽ hội chúng, tức là việc phân chia quyền lănh đạo, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: - “Này kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, ―(như trên)― Này kẻ rồ dại, v́ sao ngươi lại ra sức chia rẽ hội chúng, tức là việc phân chia quyền lănh đạo vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

 “Vị tỳ khưu nào ra sức chia rẽ hội chúng hợp nhất hoặc nắm lấy cuộc tranh tụng đưa đến chia rẽ, rồi loan truyền, chấp giữ, vị tỳ khưu ấy nên được nói bởi các tỳ khưu như vầy: ‘Đại đức chớ có ra sức chia rẽ hội chúng hợp nhất, hoặc nắm lấy cuộc tranh tụng đưa đến chia rẽ, rồi loan truyền, chấp giữ. Đại đức hăy ḥa nhập cùng hội chúng v́ hội chúng hợp nhất, thân thiện, không căi cọ, chung một nguyên tắc[6] th́ sống được an lạc.’ Và khi được các tỳ khưu nói như vậy mà vị tỳ khưu ấy vẫn chấp giữ y như thế, th́ vị tỳ khưu ấy nên được các tỳ khưu nhắc nhở đến lần thứ ba để dứt bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ th́ phạm tội saṅghādisesa.

 

5. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

Hội chúng hợp nhất nghĩa là có sự đồng cộng trú được thiết lập trong cùng ranh giới.

 

Ra sức chia rẽ: vị (nghĩ rằng): “Làm thế nào để những người này trở thành khác biệt, trở thành tách biệt, trở thành phe nhóm?” rồi tầm cầu phe cánh, kết hợp nhóm bọn.

 

Hoặc là cuộc tranh tụng đưa đến chia rẽ: là mười tám sự việc làm chia rẽ.[7]

 

Nắm lấy: là chọn lấy.

 

Loan truyền: là khơi lên.

 

Chấp giữ: là không chịu từ bỏ.

 

Vị tỳ khưu ấy: là vị tỳ khưu chia rẽ hội chúng.

 

Bởi các tỳ khưu: là bởi các vị tỳ khưu khác.

 

Các vị nào thấy, các vị nào nghe, các vị ấy nên nói rằng: “Đại đức chớ có ra sức chia rẽ hội chúng hợp nhất, hoặc nắm lấy cuộc tranh tụng đưa đến chia rẽ, rồi loan truyền, chấp giữ. Đại đức hăy ḥa nhập cùng hội chúng v́ hội chúng hợp nhất, thân thiện, không căi cọ, chung một nguyên tắc, th́ sống được an lạc.” Nên được nói đến lần thứ nh́. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ th́ phạm tội dukkaṭa. Các vị sau khi nghe mà không nói th́ phạm tội dukkaṭa.

 

 Vị tỳ khưu ấy nên được kéo đến giữa hội chúng rồi nên được nói rằng: “Đại đức chớ có ra sức chia rẽ hội chúng hợp nhất, hoặc nắm lấy cuộc tranh tụng đưa đến chia rẽ, rồi loan truyền, chấp giữ. Đại đức hăy ḥa nhập cùng hội chúng v́ hội chúng hợp nhất, thân thiện, không căi cọ, chung một nguyên tắc, th́ sống được an lạc.” Nên được nói đến lần thứ nh́. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ th́ phạm tội dukkaṭa. Vị tỳ khưu ấy nên được nhắc nhở. Và này các tỳ khưu, nên được nhắc nhở như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 

Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) ra sức chia rẽ hội chúng hợp nhất. Vị ấy không dứt bỏ sự việc ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đây là lời đề nghị.

 

Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) ra sức chia rẽ hội chúng hợp nhất. Vị ấy không dứt bỏ sự việc ấy. Hội chúng nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đại đức nào đồng ư việc nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.

 

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nh́. ―(như trên)―

 

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba. Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) ra sức chia rẽ hội chúng hợp nhất. Vị ấy không dứt bỏ sự việc ấy. Hội chúng nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đại đức nào đồng ư việc nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.

 

Vị tỳ khưu tên (như vầy) đă được hội chúng nhắc nhở để dứt bỏ sự việc ấy. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

 

Tội dukkaṭa do lời đề nghị. Các tội thullaccaya do hai lời tuyên ngôn của hành sự. Khi chấm dứt tuyên ngôn của hành sự th́ phạm tội saṅghādisesa. Đối với vị vi phạm tội saṅghādisesa, th́ tội dukkaṭa do lời đề nghị và các tội thullaccaya do hai lời tuyên ngôn của hành sự hết hiệu lực.

 

Tội saṅghādisesa: ―(như trên)― cũng v́ thế được gọi là “tội saṅghādisesa.”

 

6. Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị không dứt bỏ th́ phạm tội saṅghādisesa. Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị không dứt bỏ th́ phạm tội saṅghādisesa. Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị không dứt bỏ th́ phạm tội saṅghādisesa. Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa.

 

7. Vị chưa được nhắc nhở, vị dứt bỏ, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Dứt điều học thứ nhất về chia rẽ hội chúng.

 

--ooOoo--

 

 

3. 11. ĐIỀU HỌC THỨ NH̀ VỀ CHIA RẼ HỘI CHÚNG

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, Devadatta ra sức chia rẽ hội chúng, tức là việc phân chia quyền lănh đạo. Các tỳ khưu đă nói như vầy: - “Devadatta là người nói sai Pháp, Devadatta là người nói sai Luật. V́ sao Devadatta lại ra sức chia rẽ hội chúng, tức là việc phân chia quyền lănh đạo vậy?” Khi được nói như thế, Kokālika, Kaṭamorakatissaka con trai của Khaṇḍadevī, và Samuddadatto đă nói với các vị tỳ khưu ấy như vầy: - “Các đại đức chớ có nói như thế. Devadatta là người nói đúng Pháp. Devadatta là người nói đúng Luật. Devadatta nắm được và phát biểu về ước muốn và điều thích ư của chúng tôi, vị ấy hiểu và nói cho chúng tôi; hơn nữa điều ấy hợp ư chúng tôi.” Các tỳ khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao trong khi Devadatta ra sức chia rẽ hội chúng, các tỳ khưu lại là những kẻ ủng hộ tức là những kẻ tuyên bố ly khai?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói trong khi Devadatta ra sức chia rẽ hội chúng, các tỳ khưu lại là những kẻ ủng hộ tức là những kẻ tuyên bố ly khai, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao trong khi Devadatta ra sức chia rẽ hội chúng, những kẻ rồ dại ấy lại là những kẻ ủng hộ tức là những kẻ tuyên bố ly khai vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Các tỳ khưu là những kẻ ủng hộ của chính vị tỳ khưu ấy tức là những kẻ tuyên bố ly khai dầu là một vị, hoặc hai vị, hoặc ba vị, và các vị ấy nói như vầy: ‘Các đại đức chớ có nói bất cứ điều ǵ về vị tỳ khưu này. Vị tỳ khưu này là người nói đúng Pháp. Vị tỳ khưu này là người nói đúng Luật. Vị tỳ khưu này nắm được rồi phát biểu về ước muốn và điều thích ư của chúng tôi, vị ấy hiểu và nói cho chúng tôi; hơn nữa điều ấy hợp ư chúng tôi.’ Các vị tỳ khưu ấy nên được nói bởi các tỳ khưu như vầy: ‘Các đại đức chớ có nói như thế. Vị tỳ khưu này không phải là người nói đúng Pháp. Vị tỳ khưu này không phải là người nói đúng Luật. Các đại đức chớ có thích ư về việc chia rẽ hội chúng. Các đại đức hăy ḥa nhập cùng hội chúng v́ hội chúng hợp nhất, thân thiện, không căi cọ, chung một nguyên tắc, th́ sống được an lạc.’ Và khi được các tỳ khưu nói như vậy mà các vị tỳ khưu ấy vẫn chấp giữ y như thế, th́ các vị tỳ khưu ấy nên được các tỳ khưu nhắc nhở đến lần thứ ba để dứt bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ th́ phạm tội saṅghādisesa.

 

2. Của chính vị ấy: là của chính vị tỳ khưu chia rẽ hội chúng.

 

Các tỳ khưu là: Các vị tỳ khưu khác là.

 

Những kẻ ủng hộ: (Vị chia rẽ hội chúng) có quan điểm ǵ, có điều mong mỏi ǵ, có sự thích ư ǵ th́ các vị ấy cũng có quan điểm ấy, có điều mong mỏi ấy, có sự thích ư ấy.

 

Những kẻ tuyên bố ly khai: là những vị đứng trong phe, trong nhóm của vị ấy.

 

Một vị, hoặc hai vị, hoặc ba vị: là một vị, hoặc hai vị, hoặc ba vị, và các vị ấy nói như vầy: - “Các đại đức chớ có nói bất cứ điều ǵ về vị tỳ khưu này. Vị tỳ khưu này là người nói đúng Pháp. Vị tỳ khưu này là người nói đúng Luật. Vị tỳ khưu này nắm được rồi phát biểu về ước muốn và điều thích ư của chúng tôi, vị ấy hiểu và nói cho chúng tôi; hơn nữa điều ấy hợp ư chúng tôi.”

 

Các vị tỳ khưu ấy: các vị tỳ khưu là những kẻ ủng hộ.

 

Bởi các tỳ khưu: là bởi các vị tỳ khưu khác. Các vị nào thấy, các vị nào nghe, các vị ấy nên nói rằng: “Các đại đức chớ có nói như thế. Vị tỳ khưu này không phải là người nói đúng Pháp. Vị tỳ khưu này không phải là người nói đúng Luật. Các đại đức chớ có thích ư về việc chia rẽ hội chúng. Các đại đức hăy ḥa nhập cùng hội chúng v́ hội chúng hợp nhất, thân thiện, không căi cọ, chung một nguyên tắc, th́ sống được an lạc.” Nên được nói đến lần thứ nh́. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (các vị ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ th́ phạm tội dukkaṭa. Các vị sau khi nghe mà không nói th́ phạm tội dukkaṭa. Các vị tỳ khưu ấy nên được kéo đến giữa hội chúng và nên được nói rằng: “Các đại đức chớ có nói như thế. Vị tỳ khưu này không phải là người nói đúng Pháp. Vị tỳ khưu này không phải là người nói đúng Luật. Các đại đức chớ có thích ư về việc chia rẽ hội chúng. Các đại đức hăy ḥa nhập cùng hội chúng v́ hội chúng hợp nhất, thân thiện, không căi cọ, chung một nguyên tắc, th́ sống được an lạc.” Nên được nói đến lần thứ nh́. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (các vị ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ th́ phạm tội dukkaṭa. Các vị tỳ khưu ấy nên được các tỳ khưu nhắc nhở. Và này các tỳ khưu, nên được nhắc nhở như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 

Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) là những kẻ ủng hộ của tỳ khưu tên (như vầy) đang ra sức chia rẽ hội chúng, tức là những kẻ tuyên bố ly khai. Các vị ấy không dứt bỏ sự việc ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên nhắc nhở các tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đây là lời đề nghị.

 

Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) là những kẻ ủng hộ của tỳ khưu tên (như vầy) đang ra sức chia rẽ hội chúng, tức là những kẻ tuyên bố ly khai. Các vị ấy không dứt bỏ sự việc ấy. Hội chúng nhắc nhở các tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đại đức nào đồng ư việc nhắc nhở các tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.

 

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nh́. ―(như trên)―

 

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba. ―(như trên)―

 

 Các tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) đă được hội chúng nhắc nhở để dứt bỏ sự việc ấy. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

 

Tội dukkaṭa do lời đề nghị. Các tội thullaccaya do hai lời tuyên ngôn của hành sự. Khi chấm dứt tuyên ngôn của hành sự th́ phạm tội saṅghādisesa. Đối với các vị vi phạm tội saṅghādisesa, th́ tội dukkaṭa do lời đề nghị và các tội thullaccaya do hai lời tuyên ngôn của hành sự hết hiệu lực. Hai ba vị nên được nhắc nhở chung (một lượt), không nên nhắc nhở nhiều hơn số lượng đó.

 

Tội saṅghādisesa: ―(như trên)― cũng v́ thế được gọi là “tội saṅghādisesa.”

 

3. Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, các vị không dứt bỏ th́ phạm tội saṅghādisesa. Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, các vị không dứt bỏ th́ phạm tội saṅghādisesa. Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, các vị không dứt bỏ th́ phạm tội saṅghādisesa. Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa.

 

4. Các vị chưa được nhắc nhở, các vị dứt bỏ, các vị có tâm bị rối loạn, các vị bị thọ khổ hành hạ, các vị bị điên, các vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Dứt điều học thứ nh́ về chia rẽ hội chúng.

 

--ooOoo--

 

 

3. 12. ĐIỀU HỌC VỀ SỰ KHÓ DẠY

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Kosambī, ở tu viện Ghosita. Vào lúc bấy giờ, đại đức Channa hành xử sai nguyên tắc. Các tỳ khưu đă nói như vầy: - “Này đại đức Channa, chớ có làm điều như vậy. Việc ấy không được phép.” Vị ấy đă nói như vầy: - “Này các đại đức, điều ǵ khiến các ngươi nghĩ là tôi cần được dạy bảo? Chính tôi mới nên dạy bảo các ngươi. Đức Phật là của chúng tôi, Giáo Pháp là của chúng tôi, Giáo Pháp đă được thấu suốt bởi ngài thái tử của chúng tôi. Cũng giống như cơn gió mạnh thổi qua th́ gom tụ cỏ, củi, lá cây, và rác rưởi đó đây chung lại thành đống; hoặc cũng giống như ḍng sông phát xuất từ ngọn núi th́ gom tụ các loại rong rêu chung lại thành đống; tương tợ như thế, các ngươi có tên khác nhau, có họ khác nhau, có ḍng dơi khác nhau, có gia tộc khác nhau đă được xuất gia và quy tụ chung lại. Điều ǵ khiến các ngươi nghĩ là tôi cần được dạy bảo? Chính tôi mới nên dạy bảo các ngươi. Đức Phật là của chúng tôi, Giáo Pháp là của chúng tôi, Giáo Pháp đă được thấu suốt bởi ngài thái tử của chúng tôi.” Các tỳ khưu nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao trong khi được các tỳ khưu dạy bảo đúng theo Pháp, đại đức Channa lại tỏ ra ương ngạnh?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này Channa, nghe nói trong khi được các tỳ khưu dạy bảo đúng theo Pháp, ngươi lại tỏ ra ương ngạnh, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: - “Này kẻ rồ dại, v́ sao trong khi được các tỳ khưu dạy bảo đúng theo Pháp, ngươi lại tỏ ra ương ngạnh vậy? ―(như trên)― Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Ngay cả vị tỳ khưu có bản tánh khó dạy, trong khi được dạy bảo bởi các tỳ khưu về các điều học thuộc về giới bổn lại tỏ ra ương ngạnh: ‘Các đại đức chớ có nói bất cứ điều ǵ đến tôi dầu là tốt hay là xấu; tôi cũng sẽ không nói bất cứ điều ǵ đến các đại đức dầu là tốt hay là xấu. Các đại đức hăy kềm chế lại việc đề cập đến tôi.’ Vị tỳ khưu ấy nên được nói bởi các tỳ khưu như vầy: ‘Đại đức chớ tỏ ra ương ngạnh, đại đức hăy tỏ ra là người dễ dạy. Đại đức hăy dạy bảo các tỳ khưu đúng theo Pháp, các tỳ khưu cũng sẽ dạy bảo đại đức đúng theo Pháp; bởi v́ như vậy hội chúng của đức Thế Tôn ấy được phát triển, tức là với sự dạy bảo lẫn nhau, với sự khích lệ lẫn nhau.’ Và khi được nói như vậy bởi các tỳ khưu mà vị tỳ khưu ấy vẫn chấp giữ y như thế, th́ vị tỳ khưu ấy nên được các tỳ khưu nhắc nhở đến lần thứ ba để dứt bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ th́ phạm tội saṅghādisesa.

 

2. Ngay cả vị tỳ khưu có bản tánh khó dạy: là vị khó dạy, là hội đủ các đức tính làm cho vị ấy trở thành khó dạy, không nhẫn nhịn, không nghiêm chỉnh thọ nhận sự giáo huấn.

 

Về các điều học thuộc về giới bổn: về các điều học thuộc về giới bổn Pātimokkha.

 

Bởi các tỳ khưu: là bởi các vị tỳ khưu khác.

 

Đúng theo Pháp nghĩa là điều học nào đă được đức Thế Tôn quy định, điều ấy nghĩa là đúng theo Pháp. Khi được dạy bảo với điều ấy, lại tỏ ra ương ngạnh: “Các đại đức chớ có nói bất cứ điều ǵ đến tôi dầu là tốt hay là xấu; tôi cũng sẽ không nói bất cứ điều ǵ đến các đại đức dầu là tốt hay là xấu. Các đại đức hăy kềm chế lại việc đề cập đến tôi.”

 

Vị tỳ khưu ấy: là vị tỳ khưu có bản tánh khó dạy.

 

Bởi các tỳ khưu: là bởi các vị tỳ khưu khác. Các vị nào thấy, các vị nào nghe, các vị ấy nên nói rằng: “Đại đức chớ tỏ ra ương ngạnh, đại đức hăy tỏ ra là người dễ dạy. Đại đức hăy dạy bảo các tỳ khưu đúng theo Pháp, các tỳ khưu cũng sẽ dạy bảo đại đức đúng theo Pháp; bởi v́ như vậy hội chúng của đức Thế Tôn ấy được phát triển, tức là với sự dạy bảo lẫn nhau, với sự khích lệ lẫn nhau.” Nên được nói đến lần thứ nh́. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ th́ phạm tội dukkaṭa. Các vị sau khi nghe mà không nói th́ phạm tội dukkaṭa. Vị tỳ khưu ấy nên được kéo đến giữa hội chúng và nên được nói rằng: “Đại đức chớ tỏ ra ương ngạnh, đại đức hăy tỏ ra là người dễ dạy. Đại đức hăy dạy bảo các tỳ khưu đúng theo Pháp, các tỳ khưu cũng sẽ dạy bảo đại đức đúng theo Pháp; bởi v́ như vậy hội chúng của đức Thế Tôn ấy được phát triển, tức là với sự dạy bảo lẫn nhau, với sự khích lệ lẫn nhau.” Nên được nói đến lần thứ nh́. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ th́ phạm tội dukkaṭa. Vị tỳ khưu ấy nên được nhắc nhở. Và này các tỳ khưu, nên được nhắc nhở như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 

Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) trong khi được các tỳ khưu dạy bảo đúng theo Pháp lại tỏ ra ương ngạnh. Vị ấy không dứt bỏ sự việc ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đây là lời đề nghị.

 

Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) trong khi được các tỳ khưu dạy bảo đúng theo Pháp lại tỏ ra ương ngạnh. Vị ấy không dứt bỏ sự việc ấy. Hội chúng nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đại đức nào đồng ư việc nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.

 

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nh́. ―(như trên)― Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba. ―(như trên)― Vị tỳ khưu tên (như vầy) đă được hội chúng nhắc nhở để dứt bỏ sự việc ấy. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

 

Tội dukkaṭa do lời đề nghị. Các tội thullaccaya do hai lời tuyên ngôn của hành sự. Khi chấm dứt tuyên ngôn của hành sự th́ phạm tội saṅghādisesa. Đối với vị vi phạm tội saṅghādisesa, th́ tội dukkaṭa do lời đề nghị và các tội thullaccaya do hai lời tuyên ngôn của hành sự hết hiệu lực.

 

Tội saṅghādisesa: ―(như trên)― cũng v́ thế được gọi là “tội saṅghādisesa.”

 

3. Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị không dứt bỏ th́ phạm tội saṅghādisesa. Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị không dứt bỏ th́ phạm tội saṅghādisesa. Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị không dứt bỏ th́ phạm tội saṅghādisesa. Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, ―(như trên)― phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, ―(như trên)― phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, ―(như trên)― phạm tội dukkaṭa.

 

4. Vị chưa được nhắc nhở, vị dứt bỏ, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Dứt điều học về sự khó dạy.

 

--ooOoo--

 

 

3. 13. ĐIỀU HỌC VỀ VỊ LÀM HƯ HỎNG CÁC GIA Đ̀NH

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các vị nhóm Assaji và Punabbasuka thường trú[8] tại Kīṭāgiri (núi Kīṭā) là những tỳ khưu tồi, không biết hổ thẹn. Họ hành xử sai nguyên tắc có h́nh thức như vầy: Họ trồng bông hoa hoặc bảo kẻ khác trồng, họ tưới hoặc bảo kẻ khác tưới, họ hái hoặc bảo kẻ khác hái, họ kết lại hoặc bảo kẻ khác kết lại, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm tràng hoa kết một mặt, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm tràng hoa kết hai mặt, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm thảm hoa, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm ṿng hoa, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm ṿng hoa đội đầu, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm ṿng hoa đeo tai, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm ṿng hoa che ngực. Họ đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng tràng hoa kết một mặt, họ đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng tràng hoa kết hai mặt, họ đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng thảm hoa, họ đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng ṿng hoa, họ đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng ṿng hoa đội đầu, họ đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng ṿng hoa đeo tai, họ đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng ṿng hoa che ngực cho những nữ gia chủ, các cô tiểu thơ, những cô gái trẻ, các cô dâu, những cô tớ gái của các gia đ́nh.

 

Họ cùng với những nữ gia chủ, các cô tiểu thơ, những cô gái trẻ, các cô dâu, những cô tớ gái của các gia đ́nh ăn chung trong một đĩa, uống chung trong một cốc, ngồi chung trên một chỗ ngồi, nằm chung trên một giường, nằm chung một tấm trải, nằm chung một tấm đắp, nằm chung một tấm trải và tấm đắp. Họ ăn sái giờ, họ uống rượu, họ đeo dây chuyền, xức nước hoa và phấn thơm, họ nhảy múa, họ ca hát, họ tấu đàn, họ vui đùa. Họ lại c̣n nhảy múa, ca hát, tấu đàn, vui đùa cùng với người nữ đang nhảy múa; họ lại c̣n nhảy múa, ca hát, tấu đàn, vui đùa cùng với người nữ đang ca hát; họ lại c̣n nhảy múa, ca hát, tấu đàn, vui đùa cùng với người nữ đang tấu đàn; họ lại c̣n nhảy múa, ca hát, tấu đàn, vui đùa cùng với người nữ đang vui đùa. Họ c̣n tiêu khiển cờ tám ô vuông, cờ mười ô vuông, họ chơi với bàn cờ tưởng tượng ở trên không, họ chơi tṛ nhảy cóc, họ chơi lối rút quân cờ, họ chơi ném xúc xắc, họ chơi đánh khăng, họ chơi tṛ đoán h́nh vẽ bằng tay, họ chơi bóng tṛn, họ chơi tṛ thổi kèn bằng lá cây, họ chơi tṛ kéo cày, họ chơi tṛ nhào lộn, họ chơi tṛ dùng lá cọ giả làm cối xay gió, họ chơi tṛ đo lường, họ chơi tṛ đua xe, họ thi bắn cung, họ chơi tṛ đố chữ, họ chơi tṛ đoán ư, họ chơi tṛ nhái điệu bộ, họ tập cỡi voi, họ tập cỡi ngựa, họ tập điều khiển xe, họ tập bắn cung, họ tập đao kiếm, họ chạy phía trước voi, họ chạy phía trước ngựa, họ chạy đi chạy lại phía trước xe; họ huưt sáo, họ vỗ tay, họ vật lộn, họ đánh nhau bằng các nắm tay. Họ trải y ca-sa hai lớp ở giữa nhà rồi nói với cô vũ nữ như vầy: “Này cô em, hăy nhảy múa ở đây,” họ c̣n vỗ tay tán thưởng. Họ hành xử sai nguyên tắc theo nhiều cách.

 

2. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đă trải qua mùa (an cư) mưa ở xứ Kāsi, trong khi đi đến thành Sāvatthī để diện kiến đức Thế Tôn, đă trú tại vùng Kīṭāgiri. Khi ấy vào buổi sáng, vị tỳ khưu ấy đă mặc y, cầm y bát, và đi vào vùng Kīṭāgiri để khất thực. Vị ấy với mắt nh́n xuống, thành tựu các oai nghi, tạo được niềm tịnh tín khi đi tới bước lui, lúc nh́n ngắm, khi cử động co duỗi. Dân chúng sau khi nh́n thấy vị tỳ khưu ấy đă nói như vầy: - “Người này là ai mà trông giống như kẻ ngu trong nhóm người ngu, giống như kẻ khờ trong nhóm người khờ, giống như kẻ ngớ ngẩn trong nhóm người ngớ ngẩn vậy? Khi gă đi đến, ai mà chịu bố thí đồ ăn đây? Trong khi các ngài thuộc nhóm Assaji và Punabbasuka của chúng ta th́ lịch thiệp, thân thiện, nói năng ḥa nhă, luôn cười xă giao, luôn mời mọc đến thăm viếng, không có hợm hĩnh, khuôn mặt lại rạng rỡ, luôn mở đầu câu chuyện; chính v́ thế, đồ ăn khất thực nên được cúng dường đến các ngài.” Có nam cư sĩ nọ đă nh́n thấy vị tỳ khưu ấy đang đi khất thực ở vùng Kīṭāgiri, sau khi thấy đă đi đến gần vị tỳ khưu ấy, sau khi đến đă đảnh lễ vị tỳ khưu ấy và đă nói điều này: - “Thưa ngài, đồ khất thực có nhận được chưa vậy?” - “Này đạo hữu, đồ khất thực chưa có nhận được.” - “Thưa ngài, xin thỉnh. Chúng ta sẽ đi về nhà.”

 

3. Khi ấy, nam cư sĩ ấy đă dẫn vị tỳ khưu ấy về nhà, dâng thức ăn, và đă nói điều này: - “Thưa ngài, ngài sẽ đi đâu?” - “Này đạo hữu, giờ ta sẽ đi Sāvatthī để diện kiến đức Thế Tôn.” - “Thưa ngài, như thế th́ xin ngài đê đầu đảnh lễ ở chân của đức Thế Tôn với lời thăm hỏi của con và xin ngài hăy thưa như vầy: “Bạch ngài, sự sinh sống ở vùng Kīṭāgiri đă bị hủ hóa. Các vị nhóm Assaji và Punabbasuka thường trú tại vùng Kīṭāgiri là những tỳ khưu tồi, không biết hổ thẹn. Họ hành xử sai nguyên tắc có h́nh thức như vầy: Họ trồng bông hoa hoặc bảo kẻ khác trồng, ―(như trên)― Họ hành xử sai nguyên tắc theo nhiều cách. Bạch ngài, những người trước đây mộ đạo, có niềm tin, bây giờ không c̣n mộ đạo, mất niềm tin. Những tập quán cúng dường đến hội chúng trước đây giờ cũng đă bị gián đoạn. Các tỳ khưu tốt ra đi, c̣n các tỳ khưu tồi cư ngụ. Bạch ngài, lành thay nếu đức Thế Tôn có thể phái các tỳ khưu đến vùng Kīṭāgiri, như vậy sự sinh sống ở vùng Kīṭāgiri có thể tồn tại.”

 

4. - “Này đạo hữu, được rồi.” Vị tỳ khưu ấy sau khi lắng nghe nam cư sĩ ấy đă ra đi về hướng thành Sāvatthī. Tuần tự, vị ấy đă đến thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Điều này đă là thông lệ của chư Phật Thế Tôn là niềm nở đối với các tỳ khưu đi đến. Khi ấy, đức Thế Tôn đă nói với vị tỳ khưu ấy điều này: - “Này tỳ khưu, sức khỏe có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp không? Ngươi đi đến đường xa có được ít mệt nhọc không? Và này tỳ khưu, ngươi từ đâu đến vậy?” - “Bạch Thế Tôn, sức khỏe khá. Bạch Thế Tôn, mọi việc tốt đẹp. Bạch ngài, con đi đường xa không mệt lắm.”

 

5. “Bạch ngài, con đây đă trải qua mùa (an cư) mưa ở xứ Kāsi, trong khi đi đến thành Sāvatthī để diện kiến đức Thế Tôn, đă trú tại vùng Kīṭāgiri. Bạch ngài, khi ấy vào buổi sáng con đă mặc y, cầm y bát, đi vào vùng Kīṭāgiri để khất thực. Bạch ngài, có nam cư sĩ nọ đă nh́n thấy con đang đi khất thực ở vùng Kīṭāgiri, sau khi thấy đă đi đến gần con, sau khi đến đă đảnh lễ con và đă nói điều này: ‘Thưa ngài, đồ khất thực có nhận được chưa vậy?’ ‘Này đạo hữu, đồ khất thực chưa có nhận được.’ ‘Thưa ngài, xin thỉnh. Chúng ta sẽ đi về nhà.’ Bạch ngài, khi ấy nam cư sĩ ấy đă dẫn con về nhà, dâng thức ăn, rồi đă nói điều này: ‘Thưa ngài, ngài sẽ đi đâu?’ ‘Này đạo hữu, giờ ta sẽ đi Sāvatthī để diện kiến đức Thế Tôn.’ ‘Thưa ngài, như thế th́ xin ngài đê đầu đảnh lễ ở chân của đức Thế Tôn với lời thăm hỏi của con và xin ngài hăy thưa như vầy: Bạch ngài, sự sinh sống ở vùng Kīṭāgiri đă bị hủ hóa. Các vị nhóm Assaji và Punabbasuka thường trú tại vùng Kīṭāgiri là những tỳ khưu tồi, không biết hổ thẹn. Họ hành xử sai nguyên tắc có h́nh thức như vầy: Họ trồng bông hoa hoặc bảo kẻ khác trồng, họ tưới hoặc bảo kẻ khác tưới, ―(như trên)― Họ hành xử sai nguyên tắc theo nhiều cách. Bạch ngài, những người trước đây mộ đạo, có niềm tin, bây giờ không c̣n mộ đạo, mất niềm tin. Những tập quán cúng dường đến hội chúng trước đây giờ cũng đă bị gián đoạn. Các tỳ khưu tốt ra đi, c̣n các tỳ khưu tồi cư ngụ. Bạch ngài, lành thay nếu đức Thế Tôn có thể phái các tỳ khưu đến vùng Kīṭāgiri, như vậy sự sinh sống ở vùng Kīṭāgiri có thể tồn tại.’ Bạch Thế Tôn, con từ xứ đó đi đến.”

 

6. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đă hỏi các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, nghe nói các vị nhóm Assaji và Punabbasuka thường trú tại vùng Kīṭāgiri là những tỳ khưu tồi, không biết hổ thẹn. Họ hành xử sai nguyên tắc có h́nh thức như vầy: Họ trồng bông hoa hoặc bảo kẻ khác trồng, ―(như trên)― Họ hành xử sai nguyên tắc theo nhiều cách. Những người trước đây mộ đạo, có niềm tin, bây giờ không c̣n mộ đạo, mất niềm tin. Những tập quán cúng dường đến hội chúng trước đây giờ cũng đă bị gián đoạn. Các tỳ khưu tốt ra đi, c̣n các tỳ khưu tồi cư ngụ, có đúng không vậy? - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng:

 

7. - “Này các tỳ khưu, v́ sao những kẻ rồ dại ấy lại hành xử sai nguyên tắc có h́nh thức như thế? Họ trồng bông hoa hoặc bảo kẻ khác trồng, họ tưới hoặc bảo kẻ khác tưới, họ hái hoặc bảo kẻ khác hái, họ kết lại hoặc bảo kẻ khác kết lại, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm tràng hoa kết một mặt, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm tràng hoa kết hai mặt, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm thảm hoa, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm ṿng hoa, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm ṿng hoa đội đầu, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm ṿng hoa đeo tai, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm ṿng hoa che ngực. Họ đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng tràng hoa kết một mặt, họ đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng tràng hoa kết hai mặt, họ đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng thảm hoa, họ đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng ṿng hoa, họ đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng ṿng hoa đội đầu, họ đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng ṿng hoa đeo tai, họ đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng ṿng hoa che ngực cho những nữ gia chủ, các cô tiểu thơ, những cô gái trẻ, các cô dâu, những cô tớ gái của các gia đ́nh. Họ cùng với những nữ gia chủ, các cô tiểu thơ, những cô gái trẻ, các cô dâu, những cô tớ gái của các gia đ́nh ăn chung trong một đĩa, uống chung trong một cốc, ngồi chung trên một chỗ ngồi, nằm chung trên một giường, nằm chung một tấm trải, nằm chung một tấm đắp, nằm chung một tấm trải và tấm đắp. Họ ăn sái giờ, họ uống rượu, họ đeo dây chuyền, xức nước hoa và phấn thơm, họ nhảy múa, họ ca hát, họ tấu đàn, họ vui đùa. Họ lại c̣n nhảy múa, ca hát, tấu đàn, vui đùa cùng với người nữ đang nhảy múa; họ lại c̣n nhảy múa, ca hát, tấu đàn, vui đùa cùng với người nữ đang ca hát; họ lại c̣n nhảy múa, ca hát, tấu đàn, vui đùa cùng với người nữ đang tấu đàn; họ lại c̣n nhảy múa, ca hát, tấu đàn, vui đùa cùng với người nữ đang vui đùa. Họ c̣n tiêu khiển cờ tám ô vuông, cờ mười ô vuông, họ chơi với bàn cờ tưởng tượng ở trên không, họ chơi lối sắp ṿng tṛn, họ chơi lối rút quân cờ, họ chơi ném xúc xắc, họ chơi đánh gậy, họ chơi tṛ vẽ bằng tay, họ chơi tṛ sấp ngửa, họ chơi tṛ thổi kèn bằng lá cây, họ chơi tṛ uốn dẻo, họ chơi tṛ nhào lộn, họ chơi tṛ dùng lá cọ giả làm cối xay gió, họ chơi tṛ đo lường, họ chơi tṛ đua xe, họ thi bắn cung, họ chơi tṛ đố chữ, họ chơi tṛ đoán ư, họ chơi tṛ nhái điệu bộ, họ tập cỡi voi, họ tập cỡi ngựa, họ tập điều khiển xe, họ tập bắn cung, họ tập đao kiếm, họ chạy phía trước voi, họ chạy phía trước ngựa, họ chạy đi chạy lại phía trước xe; họ huưt sáo, họ vỗ tay, họ vật lộn, họ đánh nhau bằng các nắm tay. Họ trải y ca-sa hai lớp ở giữa nhà rồi nói với cô vũ nữ như vầy: ‘Này cô em, hăy nhảy múa ở đây,’ họ c̣n vỗ tay tán thưởng. Họ hành xử sai nguyên tắc theo nhiều cách.

 

8. Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Sau khi đă khiển trách, đức Thế Tôn đă nói Pháp thoại rồi bảo Sāriputta và Moggallāna rằng: - “Này Sāriputta và Moggallāna, hai ngươi hăy đi đến vùng Kīṭāgiri rồi hăy thực thi hành sự xua đuổi ra khỏi vùng Kīṭāgiri đối với các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka, các vị này là những đệ tử của hai ngươi.”[9] - “Bạch ngài, các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka th́ dữ tợn và thô lỗ, làm thế nào chúng con thực thi hành sự xua đuổi ra khỏi vùng Kīṭāgiri đối với các tỳ khưu ấy được?” - “Này Sāriputta và Moggallāna, chính v́ điều ấy hai ngươi hăy đi cùng với nhiều vị tỳ khưu.” - “Bạch ngài, xin vâng. Sāriputta và Moggallāna đă trả lời đức Thế Tôn.”

 

9. - “Và này các tỳ khưu, nên thực thi như vầy: Trước hết, các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka cần được quở trách; sau khi quở trách cần được nhắc nhở; sau khi nhắc nhở cần xác định tội; sau khi xác định tội, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 

Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka này là những kẻ làm hư hỏng các gia đ́nh và có các hành động sai trái. Những hành động sai trái của các vị này không những được nh́n thấy mà c̣n được nghe đồn nữa. Các gia đ́nh bị hư hỏng v́ các vị này không những được nh́n thấy mà c̣n được nghe đồn nữa. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thực thi hành sự xua đuổi ra khỏi vùng Kīṭāgiri đối với các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka rằng: ‘Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka không được cư ngụ tại vùng Kīṭāgiri.’ Đây là lời đề nghị.

 

Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka này là những kẻ làm hư hỏng các gia đ́nh và có các hành động sai trái. Những hành động sai trái của các vị này không những được nh́n thấy mà c̣n được nghe đồn nữa. Các gia đ́nh bị hư hỏng v́ các vị này không những được nh́n thấy mà c̣n được nghe đồn nữa. Hội chúng thực thi hành sự xua đuổi ra khỏi vùng Kīṭāgiri đối với các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka rằng: ‘Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka không được cư ngụ tại vùng Kīṭāgiri.’ Đại đức nào đồng ư việc thực thi hành sự xua đuổi ra khỏi vùng Kīṭāgiri đối với các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka rằng: ‘Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka không được cư ngụ tại vùng Kīṭāgiri’ xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.

 

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nh́. ―(như trên)―

 

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba. ―(như trên)―

 

Hành sự xua đuổi ra khỏi vùng Kīṭāgiri đối với các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka rằng: ‘Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka không được cư ngụ tại vùng Kīṭāgiri’ đă được hội chúng thực thi. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

 

Sau đó, hội chúng tỳ khưu dẫn đầu là Sāriputta và Moggallāna đă đi đến vùng Kīṭāgiri và đă thực thi hành sự xua đuổi ra khỏi vùng Kīṭāgiri đối với các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka rằng: “Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka không được cư ngụ tại vùng Kīṭāgiri.” Khi được hội chúng thực thi hành sự xua đuổi, các vị ấy không làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, không trở nên thu thúc, không làm bổn phận để sửa đổi, không làm cho các tỳ khưu hài ḷng, họ mắng chửi, họ nói xấu, do có sự thiên vị v́ thương, do có sự thiên vị v́ ghét, do có sự thiên vị v́ si mê, do có sự thiên vị v́ sợ hăi họ bị sa đọa, họ bỏ đi, họ hoàn tục. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka khi được hội chúng thực thi hành sự xua đuổi lại không làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, không trở nên thu thúc, không làm bổn phận để sửa đổi, không làm cho các tỳ khưu hài ḷng, họ lại mắng chửi, họ lại nói xấu, do có sự thiên vị v́ thương, do có sự thiên vị v́ ghét, do có sự thiên vị v́ si mê, do có sự thiên vị v́ sợ hăi, họ bị sa đọa, họ bỏ đi, họ hoàn tục?”

 

11. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh bày sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói khi được hội chúng thực thi hành sự xua đuổi, các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka không làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, ―(như trên)― họ hoàn tục, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao những kẻ rồ dại ấy khi được hội chúng thực thi hành sự xua đuổi, lại không làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, không trở nên thu thúc, không làm bổn phận để sửa đổi, không làm cho các tỳ khưu hài ḷng, họ lại mắng chửi, họ lại nói xấu, do có sự thiên vị v́ thương, do có sự thiên vị v́ ghét, do có sự thiên vị v́ si mê, do có sự thiên vị v́ sợ hăi, họ bị sa đọa, họ bỏ đi, hoàn tục vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu sống nương tựa vào ngôi làng hoặc thị trấn nọ là kẻ làm hư hỏng các gia đ́nh và có hành động sai trái. Những hành động sai trái của vị ấy không những được nh́n thấy mà c̣n được nghe đồn nữa. Các gia đ́nh bị hư hỏng v́ vị ấy không những được nh́n thấy mà c̣n được nghe đồn nữa. Vị tỳ khưu ấy nên được nói bởi các tỳ khưu như vầy: ‘Chính đại đức là kẻ làm hư hỏng các gia đ́nh và có hành động sai trái. Những hành động sai trái của đại đức không những được nh́n thấy mà c̣n được nghe đồn nữa. Các gia đ́nh bị hư hỏng v́ đại đức không những được nh́n thấy mà c̣n được nghe đồn nữa. Đại đức hăy rời khỏi trú xứ này, sự cư trú ở đây đối với đại đức đă đủ rồi!’ Và khi được nói như thế bởi các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy lại nói với các tỳ khưu ấy như vầy: ‘Các tỳ khưu có sự thiên vị v́ thương, có sự thiên vị v́ ghét, có sự thiên vị v́ si mê, có sự thiên vị v́ sợ hăi, cùng với tội như nhau họ lại xua đuổi vị này, họ lại không xua đuổi vị kia.’

 

 Vị tỳ khưu ấy nên được nói bởi các tỳ khưu như vầy: ‘Đại đức chớ có nói như thế. Các tỳ khưu không có sự thiên vị v́ thương, không có sự thiên vị v́ ghét, không có sự thiên vị v́ si mê, không có sự thiên vị v́ sợ hăi. Chính đại đức là kẻ làm hư hỏng các gia đ́nh và có hành động sai trái. Những hành động sai trái của đại đức không những được nh́n thấy mà c̣n được nghe đồn nữa. Các gia đ́nh bị hư hỏng v́ đại đức không những được nh́n thấy mà c̣n được nghe đồn nữa. Đại đức hăy rời khỏi trú xứ này, sự cư trú ở đây đối với đại đức đă đủ rồi!’

 

Và khi được các tỳ khưu nói như vậy mà vị tỳ khưu ấy vẫn chấp giữ y như thế, th́ vị tỳ khưu ấy nên được các tỳ khưu nhắc nhở đến lần thứ ba để dứt bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ th́ phạm tội saṅghādisesa.

 

12. Vị tỳ khưu (sống nương tựa) vào ngôi làng hoặc thị trấn nọ: là ngôi làng, là thị trấn, là thành phố, là ngôi làng và luôn cả thị trấn.

 

Sống nương tựa: các vật dụng là y phục, đồ ăn khất thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men chữa bịnh là phụ thuộc vào nơi ấy.

 

Gia đ́nh nghĩa là có bốn loại gia đ́nh: Gia đ́nh Sát-đế-lỵ, gia đ́nh Bà-la-môn, gia đ́nh thương buôn, và gia đ́nh hạng cùng đinh.

 

Kẻ làm hư hỏng các gia đ́nh: là kẻ làm các gia đ́nh trở thành hư hỏng với bông hoa, hoặc với trái cây, hoặc với bột tắm, hoặc với đất sét, hoặc với gỗ chà răng, hoặc với tre, hoặc bằng cách thức chữa bệnh, hoặc bằng cách đi bộ đưa tin.

 

Có hành động sai trái: vị trồng bông hoa, vị bảo kẻ khác trồng, vị tưới bông hoa, vị bảo kẻ khác tưới, vị hái bông hoa, vị bảo kẻ khác hái, vị kết lại bông hoa, vị bảo kẻ khác kết lại.

 

Không những được nh́n thấy mà c̣n được nghe đồn nữa: Những ai có mặt th́ nh́n thấy, những ai vắng mặt th́ nghe.

 

Các gia đ́nh bị hư hỏng v́ vị ấy: Trước kia họ mộ đạo, v́ vị ấy họ trở nên không c̣n mộ đạo. Họ đă có niềm tin trở thành không có niềm tin.

 

Không những được nh́n thấy mà c̣n được nghe đồn nữa: Những ai có mặt th́ nh́n thấy, những ai vắng mặt th́ nghe.

 

Vị tỳ khưu ấy: là vị tỳ khưu làm hư hỏng các gia đ́nh.

 

Bởi các tỳ khưu: là bởi các vị tỳ khưu khác. Các vị nào thấy, các vị nào nghe, các vị ấy nên nói rằng: “Chính đại đức là kẻ làm hư hỏng các gia đ́nh và có hành động sai trái. Những hành động sai trái của đại đức không những được nh́n thấy mà c̣n được nghe đồn nữa. Các gia đ́nh bị hư hỏng v́ đại đức không những được nh́n thấy mà c̣n được nghe đồn nữa. Đại đức hăy rời khỏi trú xứ này, sự cư trú ở đây đối với đại đức đă đủ rồi!” Và khi được các tỳ khưu nói như thế, vị tỳ khưu ấy lại nói với các tỳ khưu ấy như vầy: “Các tỳ khưu có sự thiên vị v́ thương, có sự thiên vị v́ ghét, có sự thiên vị v́ si mê, có sự thiên vị v́ sợ hăi, cùng với tội như nhau các vị lại xua đuổi vị này, các vị lại không xua đuổi vị kia.”

 

Vị tỳ khưu ấy: là vị tỳ khưu được thực thi hành sự.

 

Bởi các tỳ khưu: là bởi các vị tỳ khưu khác. Các vị nào thấy, các vị nào nghe, các vị ấy nên nói rằng: “Đại đức chớ có nói như thế. Các tỳ khưu không có sự thiên vị v́ thương, không có sự thiên vị v́ ghét, không có sự thiên vị v́ si mê, không có sự thiên vị v́ sợ hăi. Chính đại đức là kẻ làm hư hỏng các gia đ́nh và có hành động sai trái. Những hành động sai trái của đại đức không những được nh́n thấy mà c̣n được nghe đồn nữa. Các gia đ́nh bị hư hỏng v́ đại đức không những được nh́n thấy mà c̣n được nghe đồn nữa. Đại đức hăy rời khỏi trú xứ này, sự cư trú ở đây đối với đại đức đă đủ rồi!” Nên được nói đến lần thứ nh́. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ th́ phạm tội dukkaṭa. Các vị sau khi nghe mà không nói th́ phạm tội dukkaṭa. Vị tỳ khưu ấy nên được kéo đến giữa hội chúng và nên được nói rằng: “Đại đức chớ có nói như thế. Các tỳ khưu không có sự thiên vị v́ thương, không có sự thiên vị v́ ghét, không có sự thiên vị v́ si mê, không có sự thiên vị v́ sợ hăi. Chính đại đức là kẻ làm hư hỏng các gia đ́nh và có hành động sai trái. Những hành động sai trái của đại đức không những được nh́n thấy mà c̣n được nghe đồn nữa. Các gia đ́nh bị hư hỏng v́ đại đức không những được nh́n thấy mà c̣n được nghe đồn nữa. Đại đức hăy rời khỏi trú xứ này, sự cư trú ở đây đối với đại đức đă đủ rồi!”

 

Nên được nói đến lần thứ nh́. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ th́ phạm tội dukkaṭa. Vị tỳ khưu ấy nên được các tỳ khưu nhắc nhở. Và này các tỳ khưu, nên được nhắc nhở như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 

Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) khi được hội chúng thực thi h́nh phạt xua đuổi lại lên án các tỳ khưu có sự thiên vị v́ thương, có sự thiên vị v́ ghét, có sự thiên vị v́ si mê, có sự thiên vị v́ sợ hăi. Vị ấy không dứt bỏ sự việc ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đây là lời đề nghị.

 

Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) khi được hội chúng thực thi h́nh phạt xua đuổi lại lên án các tỳ khưu có sự thiên vị v́ thương, có sự thiên vị v́ ghét, có sự thiên vị v́ si mê, có sự thiên vị v́ sợ hăi. Vị ấy không dứt bỏ sự việc ấy. Hội chúng nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đại đức nào đồng ư việc nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.

 

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nh́. ―(như trên)―

 

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba. ―(như trên)―

 

Vị tỳ khưu tên (như vầy) đă được hội chúng nhắc nhở để dứt bỏ sự việc ấy. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

 

13. Tội dukkaṭa do lời đề nghị. Các tội thullaccaya do hai lời tuyên ngôn của hành sự. Khi chấm dứt tuyên ngôn của hành sự th́ phạm tội saṅghādisesa. Đối với vị vi phạm tội saṅghādisesa, th́ tội dukkaṭa do lời đề nghị và các tội thullaccaya do hai lời tuyên ngôn của hành sự hết hiệu lực.

 

 Tội saṅghādisesa: Chỉ có hội chúng–không phải một số vị, không phải một cá nhân–ban cho h́nh phạt parivāsa của tội ấy, cho thực hành lại từ đầu, ban cho h́nh phạt mānatta, cho giải tội; v́ thế được gọi là “tội saṅghādisesa.” Là việc định danh, tức là việc đặt tên cho cả nhóm tội giống như tội ấy; cũng v́ thế được gọi là “tội saṅghādisesa.”

 

15. Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị không dứt bỏ th́ phạm tội saṅghādisesa. Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị không dứt bỏ th́ phạm tội saṅghādisesa. Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị không dứt bỏ th́ phạm tội saṅghādisesa. Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa.

 

16. Vị chưa được nhắc nhở, vị dứt bỏ, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Dứt điều học về vị làm hư hỏng các gia đ́nh.

 

--ooOoo--

 

 

17. Bạch chư đại đức, mười ba điều saṅghādisesa đă được đọc tụng xong, chín điều bị phạm tội ngay lúc vừa mới vi phạm, bốn điều (khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba. Vị tỳ khưu vi phạm điều nọ hoặc điều kia thuộc về các điều này và che giấu biết được bao nhiêu ngày th́ vị tỳ khưu ấy phải chịu h́nh phạt parivāsa không theo ư muốn bấy nhiêu ngày. Vị tỳ khưu đă trải qua h́nh phạt parivāsa nên thực hành thêm sáu đêm mānatta dành cho tỳ khưu. Vị tỳ khưu có h́nh phạt mānatta đă được hoàn tất th́ vị tỳ khưu ấy nên được giải tội tại nơi nào có hội chúng tỳ khưu nhóm hai mươi vị. Nếu hội chúng tỳ khưu nhóm hai mươi vị chỉ thiếu đi một mà giải tội cho vị tỳ khưu ấy th́ vị tỳ khưu ấy chưa được giải tội và các tỳ khưu ấy bị khiển trách. Đây là điều đúng đắn trong trường hợp ấy. Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Đến lần thứ nh́, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Các đại đức được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

 

Dứt Chương Mười Ba Pháp.

 

--ooOoo--

 

 

TÓM LƯỢC CHƯƠNG NÀY

 

 Sự xuất ra (tinh dịch), việc xúc chạm cơ thể, (nói lên) lời thô tục, t́nh dục cho bản thân, mai mối, và liêu cốc, trú xá, và không có nguyên cớ.

 

 Điều nhỏ nhặt nào đó, sự chia rẽ (hội chúng), những kẻ ủng hộ vị ấy, vị khó dạy, và làm hư hỏng các gia đ́nh, là mười ba điều học saṅghādisesa.

 

Dứt Chương saṅghādisesa.

 

--ooOoo--

 


 

[1] Tu viện này được cho xây dựng bởi người phú hộ tên Ghosita (Vin.A. iii, 574).

[2] Channa (Xa-nặc) là người đánh xe hầu cận của thái tử Siddhattha (Sĩ-đạt-ta).

[3] Chỉ có giác quan “thân” (kāyindriyaṃ) để nhận biết sự xúc chạm (Sđd. 575).

[4] Ngài Dabba là con trai của vua xứ Malla (Vin.A. iii, 578).

[5] Hai vị này là hai trong sáu vị đứng đầu nhóm Lục Sư. Thứ tự được tŕnh bày là hai vị Paṇḍuka và Lohitaka ở Sāvatthī, Mettiya và Bhummajaka ở Rājagaha, Assaji và Punabbasuka ở vùng núi Kīṭā (VinA. iii, 614).

[6] Chung sự đọc tụng giới bổn Pātimokkha đang được hiện hành (Vin.A. iii, 608).

[7] Mahāvagga - Đại Phẩm, TTPV tập 07, chương Kosambī thứ X.

[8] Được gọi là “vị thường trú” (āvāsika) nghĩa là có chỗ trú ngụ (āvāso) thuộc về các vị ấy; chỗ trú ngụ được gọi trú xá (vihāra). Tại nơi ấy những vị thường trú nào có trách nhiệm làm mới, sửa chữa những chỗ cũ kỹ, v.v... th́ được gọi là āvāsika c̣n vị chỉ thuần túy cư ngụ thôi th́ gọi là nevāsika. Ở đây, các vị này là các vị āvāsika (VinA. iii, 613).

[9] Ngài Buddhaghosa cho biết rằng hai tỳ khưu này (và luôn cả bốn vị c̣n lại đứng đầu nhóm Lục Sư) đều đă được xuất gia với hai vị Tối thượng Thinh Văn này, đă sống nương nhờ tṛn đủ 5 năm, và có học thuộc ḷng các tiêu đề mātikā (VinA. iii, 614).

                                

 

 

   
 

| 00 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 |

 
 

<Mục Lục><Đầu Trang>