Trang Chính

TTPV 36: Cullaniddesapāḷi - Tiểu Diễn Giải

Font VU-Times

 

TAM TẠNG PĀLI - VIỆT

KHUDDAKANIKĀYA - TIỂU BỘ

CULLANIDDESAPĀḶI - TIỂU DIỄN GIẢI

* TTPV tập 36 *

(Đọc với font VU- Times và Acrobat Reader)

Cập Nhật: Wednesday, June 21, 2017

 

PĀRĀYANAVAGGO - PHẨM ĐI ĐẾN BỜ KIA

 

 

Nguồn: Tam Tạng Pāli - Sinhala thuộc Buddha Jayanti Tripitaka Series (BJTS)

 

 

Lời tiếng Việt: Tỳ khưu Indacanda

 

 

Trang 2:

 

Trang 3:

 

 

 

VATTHUGĀTHĀ

 

KỆ NGÔN GIỚI THIỆU

 

 

(I) Bài kệ mở đầu

1. Kosalānaṃ purā rammā - agamā dakkhiṇāpathaṃ,
ākiñcaññaṃ patthayāno - brāhmaṇo mantapāragū.

 

1. Có vị Bà-la-môn tinh thông chú thuật, trong khi ước nguyện về trạng thái vô sở hữu, từ thành phố đáng yêu của xứ Kosala đă đi đến khu vực phía Nam.

976. Từ thành phố đẹp đẽ,
Của các Kô-xa-la,
Có vị Bà-la-môn,
Thông đạt các chú thuật,
Hướng tầm vô sở hữu,
Hướng phía Nam bước tới.

(Kinh Tập, chương V)

2. So assakassa visaye - mūlakassa samāsane,
vasī godāvarī kūle - uñchena ca phalena ca.

 

2. Vị ấy đă trú ngụ ở địa phận Assaka, kế bên vùng Mūlaka, bên bờ sông Godāvarī (sống) bằng vật lượm lặt và trái cây.  

977. Trong nước Át-xa-ka,
Gần xứ A-la-ka,
Vị ấy sống trên bờ,
Sông Gô-đa-và-rà,
Nuôi sống bằng trái cây,
Bằng đồ ăn lượm vặt.

3. Tasseva upanissāya - gāmo ca vipulo ahu,
tato jātena āyena - mahāyaññamakappayī.

 

3. Và đă có một ngôi làng rộng lớn kề cận với bờ sông ấy. Với thu nhập phát sanh từ nơi ấy, vị Bà-la-môn đă sắp đặt một cuộc tế lễ vĩ đại.

978. Gần chỗ vị ấy ở,
Có làng đất rộng răi,
Với tài sản thâu thập,
Tổ chức tế đàn lớn.

4. Mahāyaññaṃ yajitvāna - puna pāvisi assamaṃ,
tasmiṃ patipaviṭṭhamhi - añño āgañchi brāhmaṇo.

 

4. Sau khi đă cống hiến cuộc tế lễ vĩ đại, vị Bà-la-môn đă đi vào lại nơi ẩn cư. Khi vị ấy đă đi vào trong, một người Bà-la-môn khác đă đi đến.

979. Đại tế đàn lễ xong,
Vị ấy trở về am,
Trong khi bước vào am,
Một Phạm-chí khác đến.

5. Ugghaṭṭapādo tasito - paṅkadanto rajassiro,
so ca naṃ upasaṅkamma - satāni pañca yācati.

 

5. Và người ấy, với bàn chân bị sưng vù, run lập cập, có răng đóng bợn, với đầu lấm bụi, đă đi đến gần vị Bà-la-môn và cầu xin năm trăm (tiền).

 

980. Chân sưng húp, run rẩy
Đầy bùn, đầu lấm bụi,
Người ấy bước đến gần,
Và xin năm trăm tiền.

6. Tamenaṃ bāvarī disvā - āsanena nimantayī,
sukhaṃ ca kusalaṃ pucchi - idaṃ vacanamabravī.

 

6. Sau khi nh́n thấy kẻ ấy đấy, (Bà-la-môn) Bāvarī đă mời chỗ ngồi, đă hỏi về sự an lạc và tốt lành, rồi đă nói lời này:

981. Sau khi thấy vị ấy,
Ba-va-ri mời ngồi,
Hỏi thăm, thiện, an lạc
Rồi nói lời như sau:

7. Yaṃ kho mamaṃ deyyadhammaṃ - sabbaṃ vissajjitaṃ mayā,
anujānāhi me brahme - natthi pañca satāni me.
 

7. “Quả thật, cái ǵ thuộc về tôi mà là vật có thể bố thí, th́ tôi đă ban phát tất cả rồi. Này ông Bà-la-môn, xin hăy hiểu cho tôi, tôi không có năm trăm.”

Bàvarim:

982. Những ǵ tôi cho được,
Tôi đă cho tất cả,
Phạm chí hăy tin tôi,
Tôi không có năm trăm.

8. Sace me yācamānassa - bhavaṃ nānupadassati,
sattame divase tuyhaṃ - muddhā phalatu sattadhā.

 

8. “Nếu trong khi được tôi cầu xin, mà ngài không ban cho, th́ vào ngày thứ bảy, cái đầu của ngài hăy bể tan thành bảy mảnh.”

Phạm-chí:

983. Nếu điều ta xin Ông,
Tôn giả không đáp ứng,
Sau bảy ngày, đầu Ông
Sẽ bị vỡ, bảy mảnh!

Trang 4:

 

Trang 5:

 

 

9. Abhisaṅkharitvā kuhako - bheravaṃ so akittayī,
tassa taṃ vacanaṃ sutvā - bāvarī dukkhito ahu.
 

9. Sau khi làm thủ thuật, kẻ dối trá ấy đă thốt lời hăm dọa. Sau khi nghe được lời nói ấy của kẻ ấy, Bāvarī đă trở nên sầu khổ.

984. Sau khi làm chú thuật,
Kẻ man trá tuyên bố,
Những lời nói đáng sợ,
Nghe những lời nói ấy,
Phạm-chí Ba-va-ri
Cảm thấy ḷng đau khổ.

10. Ussussati anāhāro - sokasallasamappito,
atho’pi evaṃ cittassa - jhāne na ramatī mano.
 

10. (Vị ấy) trở nên héo ṃn, không thức ăn, đă bị đâm trúng bởi mũi tên sầu muộn, Rồi cũng thế, đối với người có tâm như vậy, ư không vui thích trong việc tham thiền.

 

985. Gầy ốm, không uống ăn,
Bị tên sầu muộn đâm,
Với tâm tư như vậy,
Ư khó vui trong thiền,

11. Utrastaṃ dukkhitaṃ disvā - devatā atthakāminī,
bāvariṃ upasaṅkamma - idaṃ vacanamabravī.

 

11. Sau khi nh́n thấy Bāvarī bị run sợ, bị sầu khổ, vị Thiên nhân có ḷng mong mỏi điều tốt đẹp, đă đi đến gặp Bāvarī và đă nói lời này:

986. Thấy lo sợ buồn khổ,
Một Thiên nhân đi đến,
Muốn bạn được hạnh phúc,
Nói với Ba-va-ri.

12. Na so muddhaṃ pajānāti - kuhako so dhanatthiko,
muddhani muddhapāte vā - ñāṇaṃ tassa na vijjati.
 

12. “Gă ấy không nhận biết về cái đầu. Gă dối trá ấy là kẻ tầm cầu tài sản. Sự hiểu biết của gă ấy về cái đầu hay về việc làm vỡ cái đầu không hiện hữu.”

Thiên nhân:

987. Kẻ man trá muốn tiền,
Không rơ biết về đầu,
Về đầu, đánh bể đầu,
Trí ấy nó không có
.

13. Bhotī carahi jānāti - taṃ me akkhāhi pucchitā,
muddhaṃ muddhādhipātaṃ ca - taṃ suṇoma vaco tava.
 

13. “Thưa tiên nữ, nếu nàng biết, khi được tôi hỏi, xin nàng hăy nói với tôi về điều ấy, về cái đầu và về việc làm vỡ cái đầu. Chúng tôi xin lắng nghe lời nói của nàng về điều ấy.”

Bàvarim:

988. Này bạn,nếu bạn biết,
Hăy nói câu hỏi tôi,
Về đầu, đánh bể đầu,
Chúng tôi nghe lời người.

14. Ahampetaṃ na jānāmi - ñāṇaṃ mettha na vijjati,
muddhaṃ muddhādhipāto ca - jinānaṃ hetadassanaṃ.
 

14. “Ngay cả tôi cũng không biết về điều này; sự hiểu biết của tôi về lĩnh vực này không hiện hữu. Kiến thức ở lĩnh vực này, cái đầu và việc làm vỡ cái đầu, chỉ riêng thuộc về các đấng Chiến Thắng.”

 

Thiên nhân:

989. Tôi không biết việc này,
Trí này, tôi không có,
Về đầu, đánh bể đầu,
Bậc chiến thắng thấy được.

15. Atha ko carahi jānāti - asmiṃ puthavi maṇḍale,
muddhaṃ muddhādhipātaṃ ca - taṃ me akkhāhi devate.
 

15. “Vậy th́ hiện nay, ở trái đất h́nh cầu này, người nào biết về cái đầu và về việc làm vỡ cái đầu? Thưa tiên nữ, xin nàng hăy nói điều ấy cho tôi.”

Bàvarim:

990. Vậy ai có thể biết,
Trên quả đất tṛn này,
Về đầu, đánh bể đầu,
Thiên nhân, nói tôi biết.

16. Purā kapilavatthumhā - nikkhanto lokanāyako,
apacco okkākarājassa - sakyaputto pabhaṅkaro.
 

16. “Bậc Lănh Đạo Thế Gian, hậu duệ của đức vua Okkāka, con trai ḍng Sakya, đấng Mặt Trời, trước đây đă ra đi từ thành Kapilavatthu.

Thiên nhân:

991. Từ thành Ka-pi-la,
Bậc lănh đạo thế giới,
Xuất hiện ra ở đời,
Là con cháu, hậu duệ,
Của vua Ok-ka-ka
Thích tử, chiếu hào quang.

17. So hi brāhmaṇa sambuddho - sabbadhammāna pāragu,
sabbābhiññābalappatto - sabbadhammesu cakkhumā,
sabbakammakkhayaṃ patto - vimutto upadhisaṅkhaye.
 

17. Này Bà-la-môn, vị ấy chính là đấng Toàn Giác, bậc đă đi đến bờ kia đối với tất cả các pháp, đă đạt được năng lực của tất cả các thắng trí, bậc Hữu Nhăn về tất cả các pháp, đă đạt đến sự cạn kiệt đối với tất cả các nghiệp, đă được giải thoát về sự diệt tận các mầm tái sanh.

992. Vị ấy Chánh Đẳng Giác,
Hỡi này Bà-la-môn,
Đă đi đến bờ kia,
Đối với tất cả pháp,
Đạt được cả sức mạnh,
Của tất cả thắng trí,
Bậc có mặt thấy được
Trong tất cả các pháp.
Đạt được sự diệt tận,
Của tất cả các pháp,
Được giải thoát, diệt tận,
Đối với các sanh y.

18. Buddho so bhagavā loke - dhammaṃ deseti cakkhumā,
taṃ tvaṃ gantvāna pucchassū - so te taṃ vyākarissati.
 

18. Vị ấy là đức Phật, đấng Thế Tôn ở thế gian, bậc Hữu Nhăn thuyết giảng Giáo Pháp. Ông hăy đi đến và hỏi vị ấy. Vị ấy sẽ giải thích điều ấy cho ông.”

 

993. Bậc Giác ngộ, Thế Tôn,
Bậc có mắt thuyết pháp,
Hăy đến hỏi vị ấy,
Vị ấy sẽ trả lời.

19. Sambuddhoti vaco sutvā - udaggo bāvarī ahu,
sokassa tanuko āsi - pītiñca vipulaṃ labhi.

 

19. Sau khi nghe được câu nói “Đấng Toàn Giác,” Bāvarī đă trở nên phấn khởi. Nỗi sầu muộn của vị này đă trở thành nhỏ nhoi, và ông ta đă đạt được niềm vui bao la.

 

994. Nghe tiếng Chánh Đẳng Giác,
Ba-va-ri phấn khởi,
Sầu muộn được giảm bớt,
Được hoan hỷ rộng lớn.

Trang 6:

 

Trang 7:

 

 

20. So bāvarī attamano udaggo
taṃ devataṃ pucchati vedajāto,
katamamhi gāme nigamamhi vā puna
katamamhi vā janapade lokanātho,
yattha gantvā namassemu - sambuddhaṃ dipaduttamaṃ.
 

20. Vị Bāvarī ấy, có ư hài ḷng, phấn khởi, sanh nỗi hân hoan, hỏi người tiên nữ ấy rằng: “Đấng Bảo Hộ Thế Gian ở ngôi làng hoặc ở phố thị nào, hay ở xứ sở nào? Chúng tôi sẽ đi đến nơi ấy và lễ bái đấng Toàn Giác, bậc tối thượng của loài người.”

995. Vị Ba-va-ri ấy,
Hoan hỷ và phấn khởi,
Cảm thấy ḷng cảm động,
Hỏi vị thiên nhân ấy.

Bàvarim:

995b. Ở tại thôn làng nào,
Ở tại thị trấn nào,
Ở tại quốc độ nào,
Lănh đạo thế giới trú?
Tại đấy, tôi sẽ đi,
Đảnh lễ bậc Giác ngộ,
Bậc Vô thượng loài Người.

21. Sāvatthiyaṃ kosalamandire jino
pahūtapañño varabhūrimedhaso,
so sakyaputto vidhuro anāsavo
muddhādhipātassa vidū narāsabho.
 

21. “Đấng Chiến Thắng ở Sāvatthi, cung điện của xứ Kosala, có tuệ rộng lớn, có sự sáng suốt quảng đại cao quư. Người con trai ḍng Sakya ấy không kẻ sánh bằng, không c̣n lậu hoặc, là bậc Nhân Ngưu, vị hiểu biết về việc làm vỡ cái đầu.”

Thiên nhân:

996. Ở tại Xa-vat-thi,
Trong thành Kô-xa-la,
Bậc chiến thắng an trú,
Với trí tuệ rộng lớn,
Với hiểu biết thù thắng,
Rộng răi và cùng khắp.
Vị ấy là Thích tử,
Không gánh nặng vô lậu,
Bậc Ngưu vương loài Người,
Biết rơ về đỉnh đầu,
Biết rơ đánh vỡ đầu.

22. Tato āmantayī sisse - brāhmaṇo mantapārage,
etha māṇavā akkhissaṃ - suṇotha vacanaṃ mama.
 

22. Sau đó, vị Bà-la-môn đă bảo những người học tṛ tinh thông về chú thuật rằng: “Này các cậu thanh niên hăy đi đến, ta sẽ nói. Các ngươi hăy lắng nghe lời nói của ta.

997. Rồi vị Bà-la-môn,
Cho gọi các đệ tử,
Là những vị thông đạt,
Về bùa chú kệ tụng.

Bàvarim:

997b. Hăy đến, các thanh niên,
Ta sẽ nói, hăy nghe,
Những lời ta nói lên.

23. Yasseso dullabho loke - pātubhāvo abhiṇhaso,
svajja lokamhi uppanno - sambuddho iti vissuto,
khippaṃ gantvāna sāvatthiṃ - passavho dipaduttamaṃ.
 

23. Sự xuất hiện thường xuyên ấy của vị nào là điều khó đạt được ở thế gian, vị ấy hôm nay đă hiện khởi ở thế gian, được biết tiếng là “Đấng Toàn Giác.” Chúng ta hăy nhanh chóng đi đến Sāvatthi và diện kiến bậc tối thượng của loài người.”

 

998. Vị ấy rất khó gặp,
Rất hiếm hiện ở đời,
Nay sanh ra ở đời,
Được danh bậc Chánh giác,
Hăy đi gấp Xá-vệ,
Thấy được bậc Vô thượng
.

24. Kathaṃ carahi jānemu - disvā buddhoti brāhmaṇa,
ajānataṃ no pabrūhi - yathā jānemu taṃ mayaṃ.
 

24. “Thưa Bà-la-môn, vậy làm thế nào chúng con có thể biết là ‘Đức Phật’ sau khi nh́n thấy? Xin thầy hăy nói ra cho những người không biết chúng con để chúng con có thể nhận biết vị ấy.”

Các đệ tử:

999. Kính thưa Bà-la-môn,
Thế nào chúng con biết,
Sau khi thấy vị ấy,
Biết vị ấy là Phật,
Chúng con chưa được biết
Hăy nói chúng con biết!

25. Āgatāni hi mantesu - mahāpurisalakkhaṇā,
dvattiṃsa ca vyākhyātā - samattā anupubbaso.
 

25. “Các tướng trạng của bậc đại nhân quả đă được lưu truyền ở các chú thuật, và ba mươi hai điều đă được thuật lại đầy đủ theo thứ tự.

Bàvarim:

1000. Trong những kệ bùa chú,
Được truyền lại đến nay,
Có nói đến tướng tốt,
Của một bậc Đại nhân,
Có nói ba mươi hai,
Trọn đủ, được liên tục.

26. Yassete honti gattesu - mahāpurisalakkhaṇā,
dve yeva tassa gatiyo - tatiyā hi na vijjati.
 

26. Vị nào có những tướng trạng của bậc đại nhân này ở các phần thân thể, đối với vị ấy chỉ có hai lối đi, bởi v́ lối đi thứ ba không có.

1001. Ai có trên tay chân,
Đủ tướng đại nhân ấy,
Chỉ có hai sanh thú,
Không có cái thứ ba.

27. Sace agāraṃ āvasati - vijeyya paṭhaviṃ imaṃ,
adaṇḍena asatthena - dhammenamanusāsati.
 

27. Nếu sống tại gia, vị ấy sẽ chinh phục trái đất này và cai quản đúng pháp, không nhờ vào gậy gộc, không nhờ vào gươm đao.

1002. Nếu trú tại gia đ́nh,
Chinh phục quả đất này,
Không dùng trượng, dùng kiếm,
Giáo hóa đúng Chánh pháp.

28. Sace ca so pabbajati - agārā anagāriyaṃ,
vivaṭṭacchaddo sambuddho - arahā bhavati anuttaro.
 

28. Và nếu vị ấy xuất gia, rời nhà sống không nhà, th́ (sẽ) trở thành đấng Toàn Giác, bậc A-la-hán, đấng Vô Thượng, có màn che (vô minh) đă được xua tan.

1003. Nếu vị ấy xuất gia,
Bỏ nhà, sống không nhà,
Rộng mở màn vô minh,
Vị ấy, được trở thành,
Bậc Chánh đẳng Chánh giác,
Bậc Ứng cúng, Vô thượng.

Trang 8:

 

Trang 9:

 

 

29. Jātiṃ gottaṃ ca lakkhaṇaṃ - mante sisse punāparaṃ,
muddhaṃ muddhādhipātaṃ ca - manasāyeva pucchatha.
 

29. Các ngươi hăy hỏi, chỉ bằng ư mà thôi, về việc sanh ra và về ḍng họ, về tướng trạng, về các chú thuật, về các học tṛ, về những điều khác nữa (liên quan đến ta), về cái đầu và về việc làm vỡ cái đầu.

 

1004. Với tâm ư, hăy hỏi,
Sanh, tánh tướng của ta,
Kệ chú, đệ tử ta,
Về đầu, đánh bể đầu.

30. Anāvaraṇadassāvī - yadi buddho bhavissati,
manasā pucchite pañhe - vācāya vissajessati.
 

30. Nếu là đức Phật, bậc có sự nh́n thấy không bị chướng ngại, th́ khi câu hỏi được hỏi bằng ư, (vị ấy) sẽ đáp lại bằng lời nói.”

1005. Nếu vị ấy là Phật,
Thấy rơ, không che kín,
Với lời, vị ấy đáp,
Các câu hỏi bởi ư.

31. Bāvarissa vaco sutvā - sissā soḷasa brāhmaṇā,
ajito tissametteyyo - puṇṇako atha mettagu.
 

31. Sau khi lắng nghe lời nói của Bāvarī, mười sáu vị Bà-la-môn học tṛ là: Ajita, Tissametteyya, Puṇṇaka, rồi Mettagū, ...

Nghe lời Ba-va-ri,
Mười sáu người đệ tử,
Tất cả là Phạm chí,
Tên là A-ji-ta,
Tis-xa-mêt-tê-ya,
Pun-na-ka, Mết-gu,

32. Dhotako upasīvo ca - nando ca atha hemako,
todeyyakappā dubhayo - jatukaṇṇī ca paṇḍito.
 

32. Dhotaka, và Upasīva, Nanda, rồi Hemaka, hai vị Todeyya, và Kappa, và vị sáng suốt Jatukaṇṇī, ...

1006. Cùng với Đo-ta-ka,
Và U-pa-xi-va,
Nan-da, Hê-ma-ka,
Tô-đê-ya, Kap-pa,
Với Ja-tu-kan-ni,
Là bậc danh Hiền trí.

33. Bhadrāvudho udayo ca - posālo cāpi brāhmaṇo,
mogharājā ca medhāvī - piṅgiyo ca mahā-isi.
 

33. Bhadrāvudha, và Udaya, luôn cả Bà-la-môn Posāla, và vị thông minh Mogharājā, và vị đại ẩn sĩ Piṅgiya.

1008. Và Bha-drà-vu-đa,
Cùng với U-da-ya,
Phạm Chí Po-xà-la,
Và Mo-gha-rà-jà,
Là bậc có trí tuệ,
Cùng với Pin-gi-ya,
Là vị đại ẩn sĩ,
Tất cả những vị ấy.

34. Paccekagaṇino sabbe - sabbalokassa vissutā,
jhāyī jhānaratā dhīrā - pubbavāsanavāsitā.
 

34. Tất cả là những vị có đồ chúng riêng, được nổi tiếng khắp cả thế gian, có thiền chứng, thích thú với thiền, sáng trí, đă được huân tập thành thói quen trong quá khứ.

1009. Mỗi người có đồ chúng,
Có danh xưng ở đời,
Tu thiền, ưa thiền định,
Bậc có trí sáng suốt,
Mang theo những dấu tích,
Đời sống trước của ḿnh.

35. Bāvariṃ abhivanditvā - katvā ca naṃ padakkhiṇaṃ,
jaṭājinadhārā sabbe - pakkāmuṃ uttarāmukhā.
 

35. Sau khi đă đảnh lễ Bāvarī, và thực hiện việc nhiễu quanh vị ấy, tất cả có tóc bện, mặc y da dê, đă ra đi hướng về phía bắc.

1010. Đảnh lễ Ba-va-ri,
Thân phía hữu hướng Ngài,
Tất cả đều bện tóc,
Mặc áo vải da thú,
Mặt hướng về phía Bắc,
Tất cả chúng ra đi.

36. Mūlakassa patiṭṭhānaṃ - purimaṃ māhissatiṃ tathā,
ujjeniṃ cāpi gonaddhaṃ - vedisaṃ vanasavhayaṃ.
 

36. (Họ đă đi) đến Patiṭṭhāna của xứ sở Mūlaka trước tiên, rồi đến Māhissatī, luôn cả Ujjenī, Gonaddhā, Vedisā, và (thành phố) có tên Vana. 

1011. Trước hết, họ đi ngang,
Đến Pa-tít-thà-na,
Của xứ A-la-ka,
Rồi Ma-hi-xa-ti,
Tiếp đến Uj-jê-ni,
Và đến Gô-nad-đăng,
Tiếp đến Vê-đi-xăng,
Va-na-xa-ha-yăng,

37. Kosambiṃ cāpi sāketaṃ - sāvatthiṃ ca puruttamaṃ,
setavyaṃ kapilavatthuṃ - kusināraṃ ca mandiraṃ.
 

37. Rồi đến Kosambī, luôn cả sāketa, và thành phố hạng nhất Sāvatthi, Setavya,  Kapilavatthu, và cung điện Kusinārā.

Đi đến Kô-xăm-bi,
Đi đến Xa-kê-ta,
Rồi đến Xa-vat-thi,
Là thành phố tối thượng,
Kế đến Xê-ta-vyam,
Ka-pi-la-vat-thu,
Rồi đến ṭa lâu đài,
Tên Ku-xi-na-ra,

38. Pāvaṃ ca bhoganagaraṃ - vesāliṃ māgadhaṃ puraṃ,
pāsāṇakaṃ cetiyaṃ ca - ramaṇīyaṃ manoramaṃ.
 

38. Pāvā, và thành phố Bhogā, Vesālī, thành phố xứ Magadha, và điện thờ Pāsāṇakaṃ đáng yêu, thich ư.

1012. Rồi đi đến Pa-va,
Và thành phố Bhô-ga,
Tiếp đến Vê-xá-ly,
Thành phố Ma-ga-đa,
Rồi Pa-xe-na-ka,
Ngôi điện đẹp, khả ái.

39. Tasitovudakaṃ sītaṃ - mahālābhaṃ va vāṇijo,
chāyaṃ ghammābhitattova - tusitā pabbatamāruhuṃ.

 

39. Tựa như người bị khát nước được nước mát, tựa như thương buôn được lợi lớn, tựa như người bị thiêu đốt bởi sức nóng được bóng râm, họ đă vui mừng trèo lên ngọn núi.

 

1014. Như người khát, nước mát,
Như người buôn, lợi lớn,
Như nóng bức, bóng mát,
Họ gấp leo ngọn núi.

Trang 10:

 

Trang 11:

 

 

40. Bhagavā ca tasmiṃ samaye - bhikkhusaṅghapurakkhato,
bhikkhūnaṃ dhammaṃ deseti - sīhova nadatī vane.
 

40. Và vào thời điểm ấy, đức Thế Tôn, được hội chúng tỳ khưu tôn vinh,  thuyết giảng Giáo Pháp cho các vị tỳ khưu, tựa như con sư tử gầm thét ở khu rừng.

1015. Thế Tôn, trong lúc ấy,
Dẫn đầu chúng Tỷ-kheo,
Ngài đang thuyết Chánh pháp,
Cho các vị Tỷ-kheo,
Giống như con sư tử,
Rống tiếng rống trong rừng.

41. Ajito addasa sambuddhaṃ - sataraṃsiṃ’va bhānumaṃ,
candaṃ yathā paṇṇarase - paripūrimupāgataṃ.
 

41. Ajita đă nh́n thấy đấng Toàn Giác tựa như mặt trời có trăm ánh hào quang, giống như mặt trăng đă tiến gần đến sự tṛn đầy vào ngày mười lăm.

 

1016. A-ja-ta thấy Phật,
Như mặt trời vàng chói,
Như mặt trăng ngày rằm,
Được tṛn đầy viên măn.

42. Athassa gatte disvāna - paripūraṃ ca byañjanaṃ,
ekamantaṃ ṭhito haṭṭho - manopañhe apucchatha.
 

42. Rồi sau khi nh́n thấy các phần thân thể của vị này và dấu hiệu được đầy đủ, Ajita, đứng ở một bên, mừng rỡ, đă hỏi bằng ư các câu hỏi rằng:

 

1017. Và thấy tay chân Ngài,
Đầy đủ các tướng tốt,
Hoan hỷ đứng một bên,
Hỏi câu hỏi tâm ư.

43. Ādissa jammanaṃ brūhi - gottaṃ brūhi salakkhaṇaṃ,
mantesu pāramiṃ brūhi - kati vāceti brāhmaṇo.
 

43. “Xin Ngài hăy xác định và nói về việc sanh ra (của vị Bāvarī). Xin Ngài hăy nói về ḍng họ cùng với tướng trạng. Xin Ngài hăy nói về sự toàn hảo ở các chú thuật. Vị Bà-la-môn (Bāvarī) dạy bảo được bao nhiêu?”

 

Ajita:

1018. Hăy nói về thọ sanh,
Nói ḍng họ, các tướng,
Về tối thượng kệ chú,
Phạm chí đọc bao nhiêu?

44. Vīsaṃ vassasataṃ āyu - so ca gottena bāvarī,
tīṇassa lakkhaṇā gatte - tiṇṇaṃ vedāna pāragū.
 

44. “Tuổi thọ là một trăm hai mươi. Và theo ḍng họ vị ấy là Bāvarī. Ở thân thể vị này có ba tướng trạng. Là vị tinh thông về ba bộ Vệ Đà.

Thế Tôn:

1019. Tuổi thọ trăm hai mươi,
Ḍng họ Bà-va-ri,
Trên tay chân, ba tướng,
Thông đạt ba Vệ-đà.

45. Lakkhaṇe itihāse ca - sanighaṇḍu-sakeṭubhe,
pañca satāni vāceti - sadhamme pāramiṃ gato.
 

45. Là người đă đạt đến sự toàn hảo về pháp (Bà-la-môn) của ḿnh, về tướng trạng và về lịch sử, về từ vựng và về nghi lễ, (Bāvarī) dạy bảo năm trăm (học tṛ).”

 

1020. Về tướng và truyền thuyết,
Về tự vựng, lễ nghi,
Tụng đọc được năm trăm,
Đạt tối thượng diệu pháp.

46. Lakkhaṇānaṃ pavicayaṃ - bāvarissa naruttama,
taṇhacchida pakāsehi - mā no kaṅkhāyitaṃ ahu.
 

46. “Thưa bậc Tối Thượng Nhân, thưa bậc đă cắt đứt tham ái, xin Ngài hăy giải thích chi tiết về các tướng trạng của Bāvarī, xin chớ để chúng tôi bị hoài nghi.”

 

Ajita:

1021. Bậc Vô thượng, đoạn ái,
Hăy nói lên tường tận
Các tướng Ba-va-ri,
Để chúng con không nghi.

47. Mukhaṃ jivhāya chādeti - uṇṇassa bhamukantare,
kosohitaṃ vatthaguyhaṃ - evaṃ jānāhi māṇava.
 

47. “(Người ấy) che khuất khuôn mặt bằng cái lưỡi, có sợi lông ở khoảng giữa chân mày của người này, vật được che giấu sau lớp vải (vật kín) được bọc lại; này người thanh niên, hăy biết như thế.”

 

Thế Tôn:

1022. Lưỡi che kín mặt mày,
Giữa hàng mi, lông trắng,
Có da bọc âm tàng,
Hăy biết vậy, thanh niên.

48. Pucchamhi kañci asuṇanto - sutvā pañhe vyākate,
vicinteti jano sabbo - vedajāto katañjalī.
 

48. Trong khi không nghe bất kỳ câu hỏi nào, mà đă nghe các câu hỏi được trả lời, tất cả mọi người sanh nỗi hân hoan, tay chắp lại, suy nghĩ rằng:

 

1023. Không nghe câu hỏi ǵ,
Chỉ nghe câu trả lời,
Quần chúng rất ngạc nhiên,
Chắp tay tự suy nghĩ.

49. Ko nu devo vā brāhmā vā - indo vāpi sujampati,
manasā pucchite pañhe - kametaṃ paṭibhāsati.
 

49. “Vậy th́ vị Trời nào, hay đấng Đại Phạm, hoặc (Thiên vương) Inda chồng của Sujā, đă hỏi bằng ư những câu hỏi ấy? (Đức Phật) đáp lại điều này cho ai?”

 

Dân chúng:

1024. Thiên, Phạm thiên, Đế thích,
Hay Xu-jam-pa-ti
Ai, với ư hỏi Ngài,
Xin nói cho được biết?

50. Muddhaṃ muddhādhipātaṃ ca - bāvarī paripucchati,
taṃ vyākarohi bhagavā - kaṅkhaṃ vinaya no ise.
 

50. “Vị Bāvarī hỏi về cái đầu và về việc làm vỡ cái đầu. Thưa đức Thế Tôn, xin Ngài hăy trả lời điều ấy. Thưa bậc ẩn sĩ, xin Ngài hăy xua đi nỗi nghi ngờ của chúng tôi.”

 

Ajita:

1025. Ba-va-ri t́m hỏi,
Về đầu, đánh bể đầu,
Thế Tôn hăy trả lời,
Đoạn nghi hoặc chúng con?
Ôi, thưa bậc Tiên nhân!

Trang 12:

 

Trang 13:

 

 

51. Avijjā muddhāti jānāhi - vijjā muddhādhipātinī,
saddhāsatisamādhīhi chandaviriyena saṃyutā.
 

51. “Người hăy biết vô minh là ‘cái đầu,’ minh với việc đập vỡ cái đầu, được liên kết với tín, niệm, định, ... với ước muốn và tinh tấn.”

 

Thế Tôn:

1026. Vô minh là đỉnh đầu,
Hăy hiểu biết như vậy,
Minh là đánh bể đầu,
Liên hệ dục tinh tấn,
Với ḷng tin, chánh niệm,
Liên hệ với thiền định.

52. Tato vedena mahatā - santhambhitvāna māṇavo,
ekaṃsaṃ ajinaṃ katvā - pādesu sirasā patī.
 

52. Do đó, với nỗi hân hoan lớn lao, sau khi trấn tĩnh lại người thanh niên Bà-la-môn đă khoác tấm da dê một bên vai, quỳ xuống đê đầu ở hai bàn chân (đức Phật và nói rằng):

 

1027. Với cảm thọ lớn mạnh,
Thanh niên tự chế ngự,
Đắp áo da một bên,
Với đầu, đảnh lễ chân.

53. Bāvarī brāhmaṇo bhoto - saha sissehi mārisa,
udaggacitto sumano - pāde vandati cakkhuma.
 

53. “Thưa Ngài, Bà-la-môn Bāvarī, có tâm phấn khởi, có ư tốt lành, cùng với các học tṛ đảnh lễ hai bàn chân của Ngài, thưa bậc Hữu Nhăn.”

 

Ajita:

1028. Phạm chí Ba-va-ri,
Cùng đệ tử, thưa Ngài,
Tâm phấn khởi, đẹp ư,
Lễ chân, bậc có mắt.

54. Sukhito bāvarī hotu - saha sissehi brāhmaṇo,
tvaṃ cāpi sukhito hohi - ciraṃ jīvāhi māṇava.
 

54. “Mong sao Bà-la-môn Bāvarī cùng với các học tṛ được an lạc. Và luôn cả ngươi nữa hăy được an lạc. Này người thanh niên, chúc người sống thọ.

 

Thế Tôn:

1029. Phạm chí Ba-va-ri,
Hăy sống được an lạc,
Cùng với các đệ tử!
Mong Ông sống an lạc,
Thọ mạng được lâu dài,
Hỡi này kẻ thanh niên.

55. Bāvarissa va tumhaṃ vā - sabbesaṃ sabbasaṃsayaṃ,
katāvakāsā pucchavho - yaṃ kiñci manasicchatha.
 

55. Từ cơ hội đă được tạo ra, ngươi hăy hỏi mọi điều hoài nghi của tất cả, của Bāvarī, hoặc của ngươi, bất cứ điều ǵ ngươi mong muốn ở trong tâm.”

 

1030. Ba-va-ri và Ông,
Có mọi nghi ngờ ǵ,
Cơ hội đến, hăy hỏi,
Tùy theo ư Ông muốn.

56. Sambuddhena katokāso - nisīditvāna pañjalī,
ajito paṭhamaṃ pañhaṃ - tattha pucchi tathāgataṃ.
 

56. Với cơ hội đă được tạo ra bởi đấng Toàn Giác, Ajita đă ngồi xuống, chắp tay lại, tại nơi ấy đă hỏi đức Như Lai câu hỏi thứ nhất.

 

1031. Được bậc Chánh Đẳng Giác,
Cho cơ hội tốt đẹp,
A-ji-ta liền ngồi,
Chắp tay hỏi Như Lai,
Hỏi câu hỏi thứ nhất,
Chính ngay tại chỗ ấy,
Kệ mở đầu đă xong.

 

Vatthugāthā niṭṭhitā.
 

 

Dứt Kệ Ngôn Giới Thiệu.

 

 

Trang 14:

 

Trang 15:

 

 

 

1. AJITAMĀṆAVAPUCCHĀ

 

1. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN AJITA

(II) Câu hỏi của thanh niên A-ji-ta

1-1. Kenassu nivuto loko (iccāyasmā ajito)
kenassu nappakāsati
kissābhilepanaṃ brūhi
kiṃ su tassa mahabbhayaṃ.

1-1. (Tôn giả Ajita[1] hỏi:) “Thế giới bị bao trùm bởi cái ǵ? Không chói sáng bởi điều ǵ? Ngài hăy nói cái ǵ là vật làm uế nhiễm đối với (thế giới) này? Sự nguy hiểm lớn lao của nó là ǵ?”


[1] Lúc đi đến gặp đức Thế Tôn, Ajita c̣n là một vị thanh niên Bà-la-môn (māṇava). Vào cuối buổi giảng Pháp, Ajita đă được thành tựu quả vị A-la-hán (SnA. ii, 588; Cullaniddesapāḷi – Tiểu Diễn Giải, TTPV tập 36, trang 89).

Ajita:

1032. Tôn giả A-ji-ta:
Do ǵ, đời bị che,
Do ǵ, không chói sáng,
Hăy nói lên cái ǵ,
Làm uế nhiễm cuộc đời,
Cái ǵ sợ hăi lớn?

(Kinh Tập, chương V)

1-2. Avijjāya nivuto loko (ajitāti bhagavā)
vevicchā pamādā nappakāsati
jappābhilepanaṃ brūmi
dukkhamassa mahabbhayaṃ.

1-2. (Đức Thế Tôn nói: “Này Ajita,) thế giới bị bao trùm bởi vô minh, không chói sáng bởi keo kiệt, bởi xao lăng. Ta nói tham muốn là vật làm uế nhiễm, khổ là sự nguy hiểm lớn lao của nó (thế giới).”

Thế Tôn:

1033. Thế Tôn liền đáp lại:
Đời bị vô minh che,
Do xan tham, phóng dật,
Đời không được chói sáng,
Ta nói do mong cầu,
Nên đời bị uế nhiễm,
Chính là sự đau khổ,
Nên có sợ hăi lớn.

1-3. Savanti sabbadhi sotā (iccāyasmā ajito)
sotānaṃ kiṃ nivāraṇaṃ
sotānaṃ saṃvaraṃ brūhi
kena sotā pithīyare.

1-3. (Tôn giả Ajita hỏi:) “Các ḍng chảy chảy tràn khắp mọi nơi, cái ǵ là sự ngăn cản các ḍng chảy? Ngài hăy nói về sự chế ngự các ḍng chảy, các ḍng chảy được chặn đứng bởi cái ǵ?”

Ajita:

1034. Tôn giả A-ji-ta:
Mọi nơi ḍng nước chảy,
Cái ǵ ngăn ḍng nước?
Hăy nói lên cái ǵ?
Chế ngự được ḍng nước?
Cái ǵ đóng ḍng nước?

1-4. Yāni sotāni lokasmiṃ (ajitāni bhagavā)
sati tesaṃ nivāraṇaṃ
sotānaṃ saṃvaraṃ brūmi
paññāyete pithīyare.

1-4. (Đức Thế Tôn nói: “Này Ajita,) những ḍng chảy nào hiện diện ở thế gian, niệm là sự ngăn cản chúng. Ta nói về sự chế ngự các ḍng chảy, chúng được chặn đứng bởi tuệ.”

Thế Tôn:

1035. Thế Tôn liền đáp lại:
Hỡi này A-ji-ta,
Các ḍng nước ở đời,
Chánh niệm ngăn chận lại,
Chánh niệm được Ta gọi,
Chế ngự các ḍng nước,
Và chính do trí tuệ,
Đóng lại các ḍng nước.

1-5. Paññā ceva satī cāpi (iccāyasmā ajito)
nāmarūpaṃ ca mārisa
etaṃ me puṭṭho pabrūhi
katthetaṃ uparujjhati.


 

1-5. (Tôn giả Ajita hỏi:) “Thưa ngài, tuệ và luôn cả niệm, danh và sắc; được tôi hỏi điều này, xin ngài hăy nói lên, ở đâu điều này được hoại diệt?”

Ajita:

1036. Tôn giả A-ji-ta:
Trí tuệ và chánh niệm,
Cùng với danh và sắc,
Kính thưa bậc Tôn giả,
Hăy nói điều con hỏi,
Từ đâu chúng bị diệt?

1-6. Yametaṃ pañhaṃ apucchi
ajita taṃ vadāmi te,
yattha nāmaṃ ca rūpaṃ ca
asesaṃ uparujjhati,
viññāṇassa nirodhena
etthetaṃ uparujjhati.

1-6. Ngươi đă hỏi câu hỏi về điều nào, này Ajita, Ta (sẽ) trả lời cho ngươi về điều ấy, về việc danh và sắc được hoại diệt không dư sót. Do sự diệt tận của thức, ở đây, điều này (danh và sắc) được hoại diệt.”

Thế Tôn:

1037. Câu hỏi ǵ Ông hỏi,
Hỡi này A-ji-ta,
Ta sẽ đáp cho Ông,
Chỗ nào danh và sắc,
Được đoạn diệt hoàn toàn,
Không c̣n lại dư tàn,
Chính do đoạn diệt thức,
Danh sắc được đoạn diệt.

1-7. Ye ca saṅkhātadhammā se
ye ca sekhā puthū idha
tesaṃ me nipako iriyaṃ
puṭṭho pabrūhi mārisa.

1-7. “Những vị nào đă hiểu rơ Giáo Pháp (là các bậc A-la- hán) và những vị nào là các bậc Hữu Học đông đảo ở nơi này, tôi hỏi bậc Chín Chắn về oai nghi của những vị ấy, thưa ngài, xin ngài hăy nói lên.”

Ajita:

1038. Những ai biết tư sát,
Các pháp thuộc hữu vi,
Cùng với bậc hữu học,
Và phàm phu ở đời,
Được hỏi, Ngài hăy nói,
Về nếp sống của họ?
Bậc thận trọng sáng suốt,
Hăy nói lên, thưa Ngài!

1-8. Kāmesu nābhigijjheyya
manasā nāvilo siyā
kusalo sabbadhammānaṃ
sato bhikkhu paribbaje.

1-8. “Không nên khát khao ở các dục, không nên bị khuấy động bởi tâm, thiện xảo đối với tất cả các pháp, có niệm, vị tỳ khưu ra đi du phương.”

Thế Tôn:

1039. Chớ tham đắm các dục,
Giữ tâm tư an tịnh,
Thiện xảo trong các pháp,
Tỷ-kheo giữ chánh niệm,
Sống đời sống xuất gia.

 

Ajitamāṇavapucchā niṭṭhitā.

 

 

Dứt Câu Hỏi Của Thanh Niên Ajita.

 

 

Trang 16:

 

Trang 17:

 

 

 

2. TISSAMETTEYYAMĀṆAVAPUCCHĀ

 

2. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN TISSAMETTEYYA

(III) Các câu hỏi của thanh niên Tissametmeyya

2-1. Ko ’dha santusito loke (iccāyasmā tissa metteyyo )
kassa no santi iñjitā
ko ubhantamabhiññāya
majjhe mantā na lippati
kaṃ brūsi mahāpuriso ’ti
ko ’dha sibbanim accagā ?

2-1. (Tôn giả Tissametteyya hỏi rằng:) “Ở đây, người nào được hài ḷng ở thế gian? Đối với người nào, các sự dao động không hiện hữu? Người nào, sau khi biết rơ cả hai đầu, không bị nhiễm bẩn ở khoảng giữa nhờ vào trí tuệ? Ngài nói ai là ‘bậc đại nhân’? Ở đây, người nào vượt qua thợ may (tham ái)?”

Tissa:

1040. Tissa Met-tey-ya:
Ai thỏa măn ở đời,
Với ai không dao động,
Ai thắng tri hai biên,
Ở giữa, không dính líu,
Ai Ngài gọi đại nhân,
Ở đời, ai vượt khỏi,
Thêu dệt các ái nhiễm?

(Kinh Tập, chương V)

2-2. Kāmesu brahmacariyavā (metteyyāti bhagavā)
vītataṇho sadā sato
saṅkhāya nibbuto bhikkhu
tassa no santi iñjitā.

2-2. (Đức Thế Tôn nói: “Này Metteyya,) vị có Phạm hạnh trong các dục, đă xa ĺa tham ái, luôn luôn có niệm. Sau khi đă suy xét, vị tỳ khưu được tịch tịnh; đối với vị ấy, các sự dao động không hiện hữu.

Thế Tôn:

1041. Thế Tôn liền đáp rằng:
Hỡi này Met-tê-ya!
Giữa dục, sống Phạm hạnh,
Không ái, luôn chánh niệm,
Tỷ-kheo lặng tính toán,
An tịnh, không dao động.

2-3. So ubhantamabhiññāya
majjhe mantā na lippati
taṃ brūmi mahā puriso ’ti
so ’dha sibbanimaccagā.

2-3. Vị ấy, sau khi biết rơ cả hai đầu, không bị nhiễm bẩn ở khoảng giữa nhờ vào trí tuệ. Ta nói vị ấy là ‘bậc đại nhân.’ Ở đây, vị ấy vượt qua thợ may (tham ái).”

1042. Ai thắng tri hai biên,
Chặng giữa, nhờ suy tư,
Không dính líu bị nhiễm,
Ta gọi là đại nhân,
Vị ấy, ở đời này,
Vượt khỏi sự thêu dệt,
Các ái nhiễm tham muốn.

 

Tissametteyyamāṇavapucchā niṭṭhitā.

 

 

Dứt Câu Hỏi Của Thanh Niên Tissametteyya.

 

 

 

3. PUṆṆAKAMĀṆAVAPUCCHĀ

 

3. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN PUṆṆAKA

(IV) Câu hỏi của thanh niên Punnaka

3-1. Anejaṃ mūladassāviṃ ( iccāyasmā puṇṇako)
atthi pañhena āgamaṃ
kiṃnissitā isayo manujā
khattiyā brāhmaṇā devatānaṃ
yaññamakappayiṃsu puthu idha loke
pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ.

3-1. (Tôn giả Puṇṇaka hỏi rằng:) “Với ư định hỏi câu hỏi, tôi đă đi đến với bậc không dục vọng, bậc có sự nh́n thấy gốc rễ (của các pháp): ‘Nương tựa vào điều ǵ, các vị ẩn sĩ, loài người, các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn, đối với các thiên thần, đă chuẩn bị lễ hiến tế đông đảo tại nơi này, ở thế gian. Thưa đức Thế Tôn, tôi hỏi ngài. Xin ngài hăy trả lời tôi về điều này.”

Punnaka:

1043. Tôn giả Pun-na-ka:
Với ai không dao động,
Thấy rơ được cội gốc,
Con đến với câu hỏi,
Liên hệ đến mục đích,
Bậc ẩn sĩ, loài Người,
Sát-đế-ly, Phạm chí,
Do họ y chỉ ǵ,
Tế đàn cho chư Thiên.
Đă tổ chức rộng lớn?
Con hỏi bậc Thế Tôn,
Hăy trả lời cho con.

(Kinh Tập, chương V)

Trang 18:

 

Trang 19:

 

 

3-2. Ye kec’ ime isayo manujā (puṇṇakāti bhagavā)
khattiyā brāhmaṇā devatānaṃ
yaññamakappayiṃsu puthu idha loke
āsiṃsamānā puṇṇaka itthabhāvaṃ
jaraṃsitā yaññamakappayiṃsu.

3-2. (Đức Thế Tôn nói: “Này Puṇṇaka,) bất cứ những ai, các vị ẩn sĩ, loài người, các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn, đối với các thiên thần, đă chuẩn bị lễ hiến tế đông đảo tại nơi này, ở thế gian, này Puṇṇaka, trong khi mong ước bản thể này, bị phụ thuộc vào tuổi già, họ đă chuẩn bị lễ hiến tế.”

Thế Tôn:

1044. Thế Tôn bèn đáp rằng:
Hỡi này Pun-na-ka!
Bậc ẩn sĩ loài Người,
Sát-đế-ly, Phạm chí,
Đă tổ chức rộng lớn,
Tế đàn cho chư Thiên.
Khi họ thành già yếu,
Họ tổ chức tế đàn,
V́ rằng họ hy vọng,
Được sanh ở đời này,
Hỡi này Pun-na-ka!

3-3. Ye kec’ ime isayo manujā (iccāyasmā puṇṇako)
khattiyā brāhmaṇā devatānaṃ
yaññamakappayiṃsu puthu idha loke
kaccissu te bhagavā yaññapathe appamattā
atāru jātiṃ ca jaraṃ ca mārisa
pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ.

3-3. (Tôn giả Puṇṇaka hỏi rằng:) “Bất cứ những ai, các vị ẩn sĩ, loài người, các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn, đối với các thiên thần, đă chuẩn bị lễ hiến tế đông đảo tại nơi này, ở thế gian, thưa đức Thế Tôn, có phải những người ấy, không xao lăng ở đường lối tế lễ, thưa ngài, th́ họ đă vượt qua sanh và già? Thưa đức Thế Tôn, tôi hỏi ngài. Xin ngài hăy trả lời tôi về điều này.”

Punnaka:

1045. Tôn giả Pun-na-ka:
Bậc ẩn sĩ loài Người,
Sát-đế-ly, Phạm chí,
Đă tổ chức rộng lớn,
Tế đàn cho chư Thiên.
Thế Tôn nghĩ thế nào,
Họ không có phóng dật
Trên con đường tế đàn,
Họ vượt qua già chết,
Được hay không, thưa Ngài,
Con hỏi đức Thế Tôn,
Con mong Ngài trả lời?

3-4. Āsiṃsanti thomayanti abhijappanti juhanti (puṇṇakāti bhagavā)
kāmābhijappanti paṭicca lābhaṃ
te yājayogā bhavarāgarattā
nātariṃsu jātijaranti brūmi.

3-4. (Đức Thế Tôn nói: “Này Puṇṇaka,) những kẻ mong ước, khen ngợi, cầu khấn, cúng tế, những kẻ cầu khấn các dục bởi v́ lợi lộc, Ta nói rằng: ‘Những kẻ ấy, do sự gắn bó vào tế lễ, bị luyến ái với sự luyến ái vào hiện hữu, đă không vượt qua sanh và già.’”

Thế Tôn:

1046. Thế Tôn trả lời rằng:
Hỡi này Pun-na-ka,
Họ hy vọng, tán thán,
Họ cầu nguyện, cúng lễ,
Họ cầu nguyện các dục,
Do duyên v́ lợi dưỡng,
Chuyên tâm lo tế đàn,
Ưa thích, tham sanh hữu,
Họ không vượt già chết,
Ta nói lên như vậy.

3-5. Te ce nātariṃsu yājayogā (iccāyasmā puṇṇako)
yaññehi jātiñca jarañca mārisa
atha ko carahi devamanussaloke
atāri jātiṃ ca jaraṃ ca mārisa
pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ.

3-5. (Tôn giả Puṇṇaka hỏi rằng:) “Thưa ngài, nếu những kẻ ấy, do sự gắn bó vào tế lễ, đă không vượt qua sanh và già nhờ vào các lễ hiến tế, vậy giờ đây, thưa ngài, người nào ở thế giới chư Thiên và nhân loại đă vượt qua sanh và già? Thưa đức Thế Tôn, tôi hỏi ngài. Xin ngài hăy trả lời tôi về điều này.”

Punnaka:

1047. Tôn giả Pun-na-ka:
Nếu chúng chuyên tế đàn,
Nhưng không thể vượt qua,
Già chết với tế đàn,
Thời ai sống ở đời,
Trong thế giới Nhơn, Thiên,
Đă vượt qua già chết,
Ai được vậy, thưa Ngài,
Con hỏi đức Thế Tôn,
Ngài trả lời cho con?

3-6. Saṅkhāya lokasmiṃ parovarāni (puṇṇakāti bhagavā)
yassiñjitaṃ natthi kuhiñci loke
santo vidhūmo anīgho nirāso
atāri so jātijaranti brūmī ”ti.
 

3-6. (Đức Thế Tôn nói: “Này Puṇṇaka,) sau khi đă suy xét nơi này và nơi khác ở thế gian, vị nào không có sự dao động tại bất cứ nơi nào ở thế gian, là bậc an tịnh, không c̣n khói mù, không phiền muộn, không mong cầu, Ta nói rằng, vị ấy đă vượt qua sanh và già.”

Thế Tôn:

1048. Thế Tôn trả lời rằng:
Hỡi này Pun-na-ka,
Ai tính toán cao thấp,
Ước lượng vậy ở đời,
Ai không bị dao động,
Bất cứ đâu ở đời,
An tịnh, không phun khói,
Không phiền năo, không cầu,
Vị ấy vượt già chết,
Ta nói lên như vậy.

 

Puṇṇakamāṇavapucchā niṭṭhitā.

 

 

Dứt Câu Hỏi Của Thanh Niên Puṇṇaka.

 

Trang 20: 

 

Trang 21: 

 

 

 

4. METTAGŪMĀṆAVAPUCCHĀ

 

 

4. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN METTAGŪ

 

(V) Câu hỏi của thanh niên Mettagu

4-1. Pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ (iccāyasmā mettagū)
maññāmi taṃ vedaguṃ bhāvitattaṃ
kuto nu dukkhā samudāgatā ime
ye keci lokasmiṃ anekarūpā.

4-1. (Tôn giả Mettagū nói rằng:) “Thưa đức Thế Tôn, tôi hỏi ngài. Xin ngài hăy trả lời tôi về điều này. Tôi nghĩ rằng ngài là bậc đă đạt được sự hiểu biết, có bản thân đă được tu tập. Từ đâu mà các khổ này đă được khởi lên, bất kể loại nào ở thế gian, với nhiều h́nh thức?”

Mettagu:

1049. Tôn giả Mêt-ta-gu:
Con xin hỏi Thế Tôn,
Mong Thế Tôn trả lời,
Vấn đề con đă hỏi,
Con nghĩ Ngài hiền trí,
Tự ngă đă tu tập,
Từ đâu, ở trong đời,
Đau khổ này khởi lên,
Với nhiều loại như vậy?

(Kinh Tập, chương V)

4-2. Dukkhassa ve maṃ pabhavaṃ apucchasi (mettagūti bhagavā)
taṃ te pavakkhāmi yathā pajānaṃ
upadhinidānā pabhavanti dukkhā
ye keci lokasmiṃ anekarūpā.
 

4-2. (Đức Thế Tôn nói: “Này Mettagū,) quả thật ngươi đă hỏi Ta về nguồn sanh khởi của khổ. Ta sẽ tuyên thuyết về điều ấy cho ngươi theo như điều Ta nhận biết. Các khổ phát khởi đều có căn nguyên là mầm tái sanh, bất kể loại nào ở thế gian, với nhiều h́nh thức.

Thế Tôn:

1050. Thế Tôn trả lời rằng:
Hỡi này Mêt-ta-gu,
Ông hỏi ta vấn đề,
Sanh khởi của khổ đau,
Ta sẽ nói cho Ông,
Như Ta đă được biết,
Chính do duyên sanh y,
Nên khổ được khởi lên,
Với nhiều loại như vậy,
Khác biệt ở trong đời.

4-3. Yo ve avidvā upadhiṃ karoti
punappunaṃ dukkhamupeti mando
tasmā pajānaṃ upadhiṃ na kayirā
dukkhassa jātippabhavānupassī.

4-3. Thật vậy, kẻ nào, (do) không biết, tạo ra mầm tái sanh, là kẻ ngu, (sẽ) đi đến khổ lần này rồi lần khác. V́ thế, người có sự quán xét về sự sanh ra và phát khởi của khổ, trong khi biết, không nên tạo ra mầm tái sanh.”

1051. Những ai v́ vô minh,
Tác thành các sanh y,
Kẻ ngu tạo đau khổ,
Tiếp tục được sanh khởi,
Do vậy kẻ hiểu biết,
Không nên tạo sanh y,
V́ thấy sự sanh khởi,
Của sanh và đau khổ.

4-4. Yaṃ taṃ apucchimha akittayī no (iccāyasmā mettagū)
aññaṃ taṃ pucchāma tadiṅgha brūhi
kathannu dhīrā vitaranti oghaṃ
jātijaraṃ sokapariddavañca
taṃ me munī sādhu viyākarohi
tathā hi te vidito esa dhammo.

4-4. (Tôn giả Mettagū nói rằng:) “Điều nào chúng tôi đă hỏi ngài, ngài đă giải thích cho chúng tôi. Chúng tôi hỏi ngài điều khác, vậy xin ngài hăy trả lời điều ấy. Làm thế nào các bậc sáng trí vượt qua ḍng lũ, sanh và già, sầu muộn và than văn? Thưa bậc hiền trí, xin ngài hăy khéo léo giảng rơ điều ấy cho tôi, bởi v́ pháp này đă được ngài biết đúng theo bản thể.”

Mettagu:

1052. Điều chúng con đă hỏi,
Ngài đă đáp chúng rồi,
Nay xin hỏi câu khác,
Mong Ngài giải đáp cho,
Thế nào bậc Hiền trí,
Vượt khỏi ḍng nước mạnh,
Vượt khỏi sanh và già,
Cùng sầu muộn than khóc,
Mong rằng bậc ẩn sĩ,
Hăy khéo trả lời con,
Đúng như Ngài đă biết,
Pháp nhĩ là như vậy?

4-5. Kittiyissāmi te dhammaṃ (mettagūti bhagavā)
diṭṭhe dhamme anitīhaṃ
yaṃ viditvā sato caraṃ
tare loke visattikaṃ.
 

4-5. (Đức Thế Tôn nói: “Này Mettagū,) Ta sẽ giải thích cho ngươi Giáo Pháp, về pháp đă được thấy, không phải do nghe nói lại, sau khi hiểu pháp ấy, vị có niệm, trong khi sống, có thể vượt qua sự vướng mắc ở thế gian.”
 

Thế Tôn:

1053. Thế Tôn trả lời rằng:
Hỡi này Mêt-ta-gu,
Ta sẽ nói cho Ông,
Pháp thiết thực hiện tại,
Không do trao truyền lại,
Sau khi biết pháp ấy,
Vị ấy sống chánh niệm,
Vượt tham ái ở đời.

4-6. Taṃ cāhaṃ abhinandāmi
mahesi dhammamuttamaṃ,
yaṃ viditvā sato caraṃ
tare loke visattikaṃ.

4-6. “Và tôi thích thú Giáo Pháp tối thượng ấy, thưa bậc đại ẩn sĩ. Sau khi hiểu pháp ấy, vị có niệm, trong khi sống, có thể vượt qua sự vướng mắc ở thế gian.”

Mettagu:

1054. Thưa bậc Đại ẩn sĩ,
Con hết sức hoan hỷ,
Chánh pháp vô thượng ấy,
Sau khi biết pháp ấy,
Sống ǵn giữ chánh niệm,
Vượt tham ái ở đời
.

Trang 22: 

 

Trang 23: 

 

 

4-7. Yaṃ kiñci sampajānāsi (mettagūti bhagavā)
uddhaṃ adho tiriyaṃ cāpi majjhe
etesu nandiñca nivesanañca
panujja viññāṇaṃ bhave na tiṭṭhe.

4-7. (Đức Thế Tôn nói: “Này Mettagū,) bất cứ điều ǵ mà ngươi tự ḿnh nhận biết, bên trên, bên dưới, luôn cả bề ngang và khoảng giữa, ngươi hăy xua đi sự vui thích, sự chấp chặt, và tâm thức liên quan đến các pháp ấy; không nên trụ lại ở hiện hữu.

Thế Tôn:

1055. Thế Tôn đáp lại rằng:
Hỡi này Mêt-ta-gu,
Phàm Ông rơ biết ǵ,
Trên dưới, ngang ở giữa,
Hăy từ bỏ hoan hỷ,
Hăy từ bỏ trú xứ,
Chớ để cho ư thức,
An trú trên sanh hữu.

4-8. Evaṃvihārī sato appamatto
bhikkhu caraṃ hitvā mamāyitāni
jātiṃ jaraṃ sokapariddavañca
idheva vidvā pajaheyya dukkhaṃ.

4-8. An trú như vậy, có niệm, không xao lăng, vị tỳ khưu, trong khi sống, sau khi từ bỏ các vật đă được chấp là của ta, là vị hiểu biết, ngay tại nơi này, có thể dứt bỏ khổ đau, sanh, già, sầu muộn và than văn.”
 

1056. An trú vậy, chánh niệm,
Tỷ-kheo không phóng dật,
Sau khi bỏ sở hành,
Đưa đến ngă, sở hữu.
Đối với sanh và già,
Sầu muộn và than khóc,
Ở đây, biết được vậy,
Hăy từ bỏ đau khổ.

4-9. Etābhinandāmi vaco mahesino (iccāyasmā mettagū)
sukittitaṃ gotama nūpadhīkaṃ,
addhā hi bhagavā pahāsi dukkhaṃ
tathā hi te vidito esa dhammo.
 

4-9. (Tôn giả Mettagū nói rằng:) “Tôi thích thú lời nói này của bậc đại ẩn sĩ, đă khéo được tŕnh bày, thưa ngài Gotama, không liên quan đến mầm tái sanh, bởi v́ đức Thế Tôn đương nhiên đă dứt bỏ khổ, bởi v́ pháp này đă được ngài biết đúng theo bản thể.

Mettagu:

1057. Con cảm thấy hoan hỉ,
Lời nói bậc Đại sĩ;
Đoạn tận được sanh y,
Được Ngài khéo tuyên thuyết.
Chắc chắn đức Thế Tôn,
Đă đoạn tận đau khổ,
V́ pháp này được Ngài,
Rơ biết là như vậy.

4-10. Te cāpi nūna pajaheyyu dukkhaṃ
ye tvaṃ munī aṭṭhitaṃ ovadeyya,
taṃ taṃ namassāmi samecca nāgaṃ
appeva maṃ bhagavā aṭṭhitaṃ ovadeyya.

4-10. Và thưa bậc hiền trí, những người nào được ngài giáo huấn không ngừng nghỉ, những người ấy chắc chắn có thể dứt bỏ khổ đau. V́ thế, thưa bậc long tượng, sau khi gặp ngài, con xin kính lễ ngài. Mong sao đức Thế Tôn sẽ giáo huấn con không ngừng nghỉ.”

1058. Những vị ấy hăy đoạn,
Hăy từ bỏ đau khổ,
Những người ấy được Ngài
Thường thường dạy, giáo hóa.
Con xin đảnh lễ Ngài,
Hăy đến, bậc Long tượng,
Mong Thế Tôn thường hằng,
Giáo hóa dạy dỗ con.

4-11. Yaṃ brāhmaṇaṃ vedaguṃ ābhijaññā (mettagūti bhagavā)
akiñcanaṃ kāmabhave asattaṃ
addhā hi so oghamimaṃ atāri
tiṇṇo ca pāraṃ akhilo akaṅkho.

4-11. (Đức Thế Tôn nói: “Này Mettagū,) vị Bà-la-môn nào mà ngươi có thể biết rơ là bậc đă đạt được sự hiểu biết, không c̣n vướng bận, không bị dính mắc ở dục và hữu, vị ấy đương nhiên đă vượt qua ḍng lũ này, và đă vượt qua đến bờ kia, không c̣n cọc nhọn (ô nhiễm), không c̣n hoài nghi.

Thế Tôn:

1059. Vị Bà-la-môn nào,
Được thắng tri, có trí,
Không có sở hữu ǵ,
Không ái luyến dục hữu,
Chắc chắn vị như vậy,
Vượt qua bộc lưu này,
Đă đến được bờ kia,
Không cứng cỏi không nghỉ.

4-12. Vidvā ca yo vedagū naro idha
bhavābhave saṅgamimaṃ visajja
so vītataṇho anīgho nirāso
atāri so jātijaranti brūmī ”ti.

4-12. “Và người nào ở nơi này, có sự hiểu biết, là bậc đă đạt được sự hiểu biết, sau khi tháo gỡ sự bấu víu này ở hữu và phi hữu, người ấy có tham ái đă được xa ĺa, không c̣n phiền muộn, không có mong cầu, Ta nói rằng, vị ấy đă vượt qua sanh và già.”

1060. Người ấy sau khi biết,
Thông suốt được Thánh điển,
Không dính ái triền này,
Về hữu và phi hữu,
Vị ấy ly tham ái,
Không phiền lụy không cầu,
Ta nói rằng vị ấy,
Đă vượt khỏi sanh già.

 

Mettagūmāṇavapucchā niṭṭhitā.

 

 

Dứt Câu Hỏi Của Thanh Niên Mettagū.

 

 

Trang 24: 

 

Trang 25: 

 

 

5. DHOTAKAMĀṆAVAPUCCHĀ

 

 

5. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN DHOTAKA

 

(VI) Câu hỏi của thanh niên Dhotaka

5-1. Pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ (iccāyasmā dhotako)
vācābhikaṅkhāmi mahesi tuyhaṃ
tava sutvāna nigghosaṃ
sikkhe nibbānamattano.

5-1. (Tôn giả Dhotaka nói rằng:) “Thưa đức Thế Tôn, con hỏi ngài. Xin ngài hăy trả lời con về điều này. Thưa bậc đại ẩn sĩ, con mong mỏi lời nói của ngài. Sau khi lắng nghe lời tuyên bố của ngài, con có thể học tập về sự tịch diệt cho bản thân.”

Dhotaka:
1061. Tôn giả Dhô-ta-ka:
Con xin hỏi Thế Tôn,
Mong Ngài trả lời cho,
Con chờ đợi lời Ngài,
Kính thưa bậc Đại sĩ,
Nghe lời Ngài tuyên bố,
Chúng con sẽ tự ḿnh,
Học tập giới Niết-bàn.

(Kinh Tập, chương V)

5-2. Tena h’ ātappaṃ karohi (dhotakāti bhagavā)
idheva nipako sato
ito sutvāna nigghosaṃ
sikkhe nibbānamattano.

5-2. (Đức Thế Tôn nói: “Này Dhotaka,) chính v́ điều ấy, ngươi hăy thực hiện sự năng nổ, ngay tại nơi này, hăy là người có sự chín chắn, có niệm. Sau khi lắng nghe lời tuyên bố từ nơi đây, nên học tập về sự tịch diệt cho bản thân.”

Thế Tôn:
1062. Thế Tôn đáp lại rằng:
Hỡi này Dhô-ta-ka,
Ở đây Ông nhiệt tâm,
Sáng suốt và chánh niệm,
Từ đây, nghe tuyên bố,
Tự học tập Niết-bàn.

5-3. Passāmahaṃ deva manussaloke (iccāyasmā dhotako)
akiñcanaṃ brāhmaṇamiriyamānaṃ
taṃ taṃ namassāmi samantacakkhu
pamuñca maṃ sakka kathaṃkathāhi.

5-3. (Tôn giả Dhotaka nói rằng:) “Con nh́n thấy ở thế giới của chư Thiên và loài người vị Bà-la-môn không c̣n vướng bận đang hành xử (bốn oai nghi). V́ thế, thưa bậc Toàn Nhăn, con xin kính lễ ngài. Thưa vị ḍng Sakya, xin ngài hăy giải thoát cho con khỏi các mối nghi ngờ.”

Dhotaka:
1063. Con thấy ở thế giới,
Chư Thiên và loài Người,
Sở hành của Phạm chí,
Không một ǵ sở hữu.
Con đảnh lễ chính Ngài,
Bậc có mắt cùng khắp,
Kính thưa bậc Thích tử,
Hăy giải thoát cho con,
Tất cả mọi nghi ngờ.

5-4. Nāhaṃ sahissāmi pamocanāya (dhotakāti bhagavā)
kathaṃkathiṃ dhotaka kañci loke
dhammaṃ ca seṭṭhaṃ ājānamāno
evaṃ tuvaṃ oghamimaṃ taresi.

5-4. (Đức Thế Tôn nói: “Này Dhotaka,) Ta sẽ không có khả năng về việc giúp cho giải thoát bất cứ người nào ở thế gian có nỗi nghi hoặc, này Dhotaka. Nhưng trong khi biết rơ Giáo Pháp tối thượng, như vậy ngươi có thể vượt qua ḍng lũ này.”

Thế Tôn:
1064. Hỡi này Dhô-ta-ka,
Ta sẽ không đi đến,
Giải thoát cho một ai,
Có nghi ngờ ở đời,
Khi pháp được Ông biết,
Là tối thượng tối thắng,
Như vậy Ông vượt khỏi,
Ḍng nước chảy mạnh này.

5-5. Anusāsa brahme karuṇāyamāno (iccāyasmā dhotako)
vivekadhammaṃ yamahaṃ vijaññaṃ
yathāhaṃ ākāso’va avyāpajjamāno
idheva santo asito careyyaṃ.

5-5. (Tôn giả Dhotaka nói rằng:) “Thưa đấng Phạm Thiên, xin ngài hăy từ mẫn chỉ dạy pháp viễn ly để con có thể nhận thức được pháp ấy, theo đó, ví như hư không, không bị xáo trộn, con có thể sống ở chính nơi này, được an tịnh, không nương nhờ.”

Dhotaka:
1065. Hăy giáo hóa, từ mẫn,
Ôi bậc đại Phạm thiên,
Để con được rơ biết,
Pháp viễn ly vô thượng,
Như vậy con sẽ sống,
Như trời không áp bức,
Sở hành ở đời này,
An tịnh và độc lập.

5-6. Kittayissāmi te santiṃ (dhotakāti bhagavā)
diṭṭhe dhamme anītihaṃ
yaṃ viditvā sato caraṃ
tare loke visattikaṃ.

5-6. (Đức Thế Tôn nói: “Này Dhotaka,) Ta sẽ giải thích cho ngươi về sự an tịnh, về pháp đă được thấy, không phải do nghe nói lại; sau khi hiểu pháp ấy, vị có niệm, trong khi sống, có thể vượt qua sự vướng mắc ở thế gian.”

Thế Tôn:
1066. Thế Tôn liền nói rằng:
Hỡi này Dho-ta-ka,
Ta sẽ giảng cho Ông,
Pháp tịch tịnh hiện tại;
Không do xưa truyền lại,
Sau khi biết pháp này,
Hăy sống, giữa chánh niệm
Vượt tham ái ở đời.

Trang 26: 

 

Trang 27: 

 

 

5-7. Taṃ cāhaṃ abhinandāmi (iccāyasmā dhotako)
mahesi santimuttamaṃ
yaṃ viditvā sato caraṃ
tare loke visattikaṃ.

5-7. (Tôn giả Dhotaka nói rằng:) “Và con thích thú về điều ấy, thưa bậc đại ẩn sĩ, về sự an tịnh tối thượng; sau khi hiểu pháp ấy, vị có niệm, trong khi sống, có thể vượt qua sự vướng mắc ở thế gian.”
 

Dhotaka:
1067. Con cảm thấy hoan hỷ,
Pháp bậc Đại sĩ giảng,
Pháp tịch tịnh vô thượng;
Sau khi biết pháp này,
Con sẽ sống chánh niệm,
Vượt tham ái ở đời.

5-8. Yaṃ kiñci sampajānāsi (dhotakāti bhagavā)
uddhaṃ adho tiriyaṃ cāpi majjhe
etaṃ viditvā saṅgo ’ti loke
bhavābhavāya mākāsi taṇhan ”ti.

5-8. (Đức Thế Tôn nói: “Này Dhotaka,) bất cứ điều ǵ mà ngươi tự ḿnh nhận biết, ở bên trên, bên dưới, luôn cả bề ngang và khoảng giữa, sau khi hiểu điều này là ‘sự quyến luyến’ ở thế gian, ngươi chớ tạo ra tham ái ở hữu và phi hữu.”

Thế Tôn:
1068. Thế Tôn lời đáp lại:
Hỡi này Dho-ta-ka,
Phàm Ông rơ biết ǵ,
Cao, thấp, ngang, chặng giữa,
Sau khi được rơ biết,
Tham ái này ở đời,
Chớ tạo nên khát ái
Với hữu và phi hữu.

 

Dhotakamāṇavapucchā niṭṭhitā.

 

 

Dứt Câu Hỏi Của Thanh Niên Dhotaka.

 

 

 

<Trang Kế>

 

<Đầu Trang>