XXI.
ASĪTINIPĀTO - NHÓM TÁM MƯƠI KỆ NGÔN
(tiếp theo)
|
Nguồn: Tam Tạng
Pāli - Sinhala thuộc Buddha Jayanti Tripitaka Series (BJTS) |
Lời tiếng Việt:
Tỳ khưu Indacanda |
Trang 336: |
Trang 337:
|
▪ 2.
MAHĀHAṂSAJĀTAKAṂ |
▪ 2. ĐẠI BỔN SANH THIÊN NGA
|
534. Chuyện đại
Thiên nga
(Tiền thân
Mahàhamsa) |
3913. Ete haṃsā pakkamanti
vakkaṅgā bhayameritā,
harittaca hemavaṇṇa kāmaṃ sumukha pakkama.
|
|
1. Ḱa đám hồng nga cất cánh
bay,
Cả bầy hốt hoảng hăi kinh đầy,
Đi ngay, Sư-mục-kha vàng ánh,
Khanh muốn ǵ chăng ở chốn này? |
3914. Ohāya maṃ ñātigaṇā ekaṃ
pāsavasaṃ gataṃ,
anapekkhamānā gacchanti kiṃ eko avahiyyasi.
|
|
2. Họ hàng ta đă bỏ rơi ta,
Bọn chúng đều cao chạy vút xa,
Đào tẩu ngay, không hề nghĩ ngợi,
Sao khanh đơn độc ở đây mà? |
3915. Pateva patataṃ seṭṭha
natthi baddhe sahāyatā,
mā anīghāya hāpesi kāmaṃ sumukha pakkama.
|
|
3. Thiên nga cao thượng, hăy
bay về,
Tù tội làm sao có bạn bè?
Lúc được tự do, Sư-mục hỡi,
Bay đi, đừng bỏ dịp may kề! |
3916. Nāhaṃ dukkhaparetoti
dhataraṭṭha tavaṃ jahe,
jīvitaṃ maraṇaṃ vā me tayā saddhiṃ bhavissati.
|
|
4. Không, thần sẽ chẳng bỏ Nga
vương,
Khi đến gần tai họa thảm thương,
Song ở lại đây, thần đă quyết
Bên ngài, dù sống chết không màng. |
3917. Nāhaṃ dukkhaparetoti
dhataraṭṭha tavaṃ jahe,
na maṃ anariyasaṃyutte kamme yojetumarahasi.
|
3917. Thưa chim chúa Dhataraṭṭha, (nghĩ rằng): ‘Ngài lâm
cảnh khổ đau,’ thần không thể bỏ rơi ngài. Ngài không thể bảo
thần dính líu đến việc làm không cao thượng.
|
5. Không, thần sẽ bỏ Nga
vương,
Khi đến gần tai họa thảm thương,
Chẳng dự vào hành vi hạ liệt
Với bầy chim nọ, chẳng theo gương. |
3918. Sakumāro sakhā tyasmi
sacitte casmi te ṭhito,
ñāto senāpati tyāhaṃ haṃsānaṃ pavaruttama.
|
|
6. Thần đồng tâm hiệp ư cùng
ngài,
Đồng bạn vui chơi thuở thiếu thời,
Giữa đám quần thần, tâu Chúa thượng,
Nổi danh là thủ lănh hùng oai. |
3919. Kathaṃ ahaṃ vikatthissaṃ
ñātimajjhe ito gato,
taṃ hitvā patataṃ seṭṭha kinte vakkhāmito gato,
idha pāṇaṃ cajissāmi nānariyaṃ kattumussahe.
|
|
7. Khi về với quyến thuộc thân
bằng
Thần biết làm sao để nói năng,
Ví thử bỏ ngài cho số phận,
Vô t́nh bay bổng thật nhanh chân?
Không, thà chịu chết hơn là sống
Khi phải đóng vai hạ liệt thần. |
3920. Eso hi dhammo sumukha yaṃ
tvaṃ ariyapathe ṭhito,
yo bhattāraṃ sakhāraṃ maṃ na pariccattumussahe.
|
|
8. Bản tính khanh, Sư-mục
Tướng quân,
Vẫn thường an trú lư Như chân,
Không bao giờ bỏ rơi vua chúa,
Thân hữu, hăy t́m cách thoát thân. |
Trang 338: |
Trang 339:
|
3921. Taṃ hi me pekkhamānassa
bhayaṃ na tveva jāyati,
adhigacchasi tvaṃ mayhaṃ evambhūtassa jīvitaṃ.
|
3921. Bởi v́, trong khi ta nh́n thấy khanh, th́ sự sợ hăi
không sanh lên ở ta. Khanh t́m đến với ta, trong khi ta hăy c̣n
mạng sống như vầy.”
|
9. Khi ta nh́n thấy mặt Hiền
khanh,
Trong trí ta không khỏi hăi kinh,
Dù cảnh ngộ buồn, khanh cũng sẽ
T́m đường giải cứu bạn thân ḿnh. |
3922. Icceva mantayantānaṃ
ariyānaṃ ariyavuttinaṃ,
daṇḍamādāya nesādo āpadī turito bhusaṃ.
|
|
10. Đôi chim cao thượng đă
trao nhau
Tư tưởng như vầy thật quư cao,
Hăy ngắm kẻ săn chim táo bạo
Tay cầm chiếc gậy, bước chân mau. |
3923. Tamāpatantaṃ disvāna
sumukho aparibrūhayi,
aṭṭhāsi purato rañño haṃso vissāsayaṃ vyathaṃ.
|
|
11. Thấy gă đến gần,
Sư-mục-kha
Đứng lên ngay trước chúa Thiên nga,
Hiên ngang khích lệ quân vương ấy
Đầy nỗi lo trong bước sẩy sa. |
9324. Mā bhāyi patataṃ seṭṭha
nahi bhāyanti tādisā,
ahaṃ yogaṃ payuñjissaṃ yuttaṃ dhammūpasaṃhitaṃ,
tena pariyāpadānena khippaṃ pāsā pamokkhasi.
|
|
12. "Nga vương cao quư, chớ
kinh hoàng,
Kinh hăi chẳng là cách Đại vương,
Với lẽ công bằng, thần nỗ lực
Khẩn cầu với lư luận khôn ngoan
Bằng hành động hết ḷng can đảm
Lần nữa Chúa công được thoát nàn. |
3925. Tassa taṃ vacanaṃ sutvā
sumukhassa subhāsitaṃ,
pahaṭṭhalomo nesādo añjalissa paṇāmayi.
|
|
13. Người săn chim nọ đă nghe
lời
Chim ấy nói ra với biện tài,
Tóc dựng đứng lên, tay chấp lại,
Tôn sùng kính lễ trước chim trời. |
3926. Na me sutaṃ vā diṭṭhaṃ vā
bhāsanto mānusiṃ dijo,
ariyaṃ bruvāno vakkaṅgo cajanto mānusiṃ giraṃ.
|
|
14. Chưa được nghe hay thấy
trước giờ
Chim dùng tiếng nói của người ta,
Và bằng giọng lưỡi chim tuyên thuyết
Chân lư tối cao quả thật là. |
3927. Kinnu tāyaṃ dijo hoti mutto
baddhaṃ upāsasi,
ohāya sakuṇā yanti kiṃ eko avahīyasi.
|
|
15. Với ngươi; chim có họ hàng
ǵ,
Khi cả đàn cùng chạy trốn đi,
Dù được tự do, ngươi ở lại
Bên chim bị bắt một ḿnh kia? |
3928. Rājā me so dijāmitta
senāpaccassa kārayiṃ,
tamāpade pariccattuṃ nussahe vihagādhipaṃ.
|
|
16. Hỡi cừu nhân của đám thiên
nga,
Ngài chúa công, ta đại tướng mà,
Ta chẳng bỏ ngài cho số phận,
B́nh an đào thoát một ḿnh ta. |
3929. Mahāgaṇāya bhattā me mā eko
vyasanaṃ agā,
tathā taṃ samma nesāda bhattāyaṃ abhito rame.
|
|
17. Đừng để Thiên nga chúa đại
hùng
Nơi đây phải chết thật đơn thân,
Bên ngài, hạnh phúc ta t́m thấy,
Ta được ngài như đáng chúa công. |
3930. Ariyavattasi vakkaṅga yo
piṇḍamapacāyasi,
cajāmi te taṃ bhattāraṃ gacchathūbho yathāsukhaṃ.
|
|
18. Ngươi kính Điểu vương, cao
quư thay,
V́ ngươi vẫn sống vời chim này,
Hăy bay về chốn ngươi chung sống,
Ta thả tự do hiền chúa ngay. |
3931. Sace attappayogena ohito
haṃsapakkhinaṃ,
paṭigaṇhāma te samma etaṃ abhayadakkhiṇaṃ.
|
|
19. Nếu v́ mục đích của riêng
tây,
Ông đă bắt ta, đặt bẫy này,
Ta được tự do ông trả lại,
Ḷng không lo lắng, nghĩ suy đầy. |
3932. No ce attappayogena ohito
haṃsapakkhinaṃ,
anissaro muñcamamhe theyyaṃ kayirāsi luddaka.
|
3932. Nếu không v́ mục đích của bản thân mà ông đặt bẫy
bắt chim thiên nga, ông không có quyền trong khi thả chúng tôi
đi. Này ông thợ săn, ông có thể phạm vào tội trộm cắp.
|
20. Song bằng không, quả thật
to gan,
Người bẫy chim tha mạng điểu vương
Mà chẳng v́ ân vua phép nước,
Hiển nhiên trộm cướp chẳng ǵ hơn. |
Trang 340: |
Trang 341:
|
3933. Yassa tvaṃ bhatako rañño
kāmaṃ tasseva pāpaya,
tattha saṃyamano rājā yathābhiññaṃ karissati.
|
|
21. Ông là tôi tớ của quân
vương,
Ư nguyện ngài, ông phải vẹn toàn,
Tùy thích vua Sa-mya định đoạt
Với ta, đối xử hợp tâm can. |
3934. Icceva vutto nesādo
hemavaṇṇe harittace,
ubho hatthehi saṅgayha pañjare ajjhavodahi.
|
3934. Được nói như thế, gă bẫy chim đă nâng hai con chim
có lông vàng, có sắc vàng bằng hai tay, rồi cẩn thận đặt xuống
trong cái lồng.
|
22. Người săn chim nắm cả hai
tay
Trong lúc được nghe nói thế này,
Liền đặt vào lồng đôi ngỗng đỏ
Sắc da vàng ánh đẹp như vầy. |
3935. Te pañjaragate pakkhī ubho
bhassaravaṇṇine,
sumukhaṃ dhataraṭṭhañca luddo ādāya pakkami.
|
|
23. Bộ lông ngời sáng, chúa
Thiên nga
Càng đẹp mắt trông, với Mục-kha,
Yên ổn trong lồng người đặt bẫy
Cầm lên cùng với ngỗng đi ra. |
3936. Harīyamāno dhataraṭṭho
sumukhaṃ etadabravi,
bāḷhaṃ bhāyāmi sumukha sāmāya lakkhaṇūruyā,
asmākaṃ vadhamaññāya athattānaṃ vadhissati.
|
|
24. Nga vương vừa mới được
mang ra,
Liền nói như vầy vời Mục-kha:
"Vương hậu diễm kiều đầy quư tướng
Bây giờ đang khổ năo v́ ta.
Nếu nàng nghe nói rằng ta chết,
Ta sợ đời nàng cũng phải sa. |
3937. Pākahaṃsā ca sumukha suhemā
hemasuttacā,
koñcī samuddatīreva kapaṇā nūna rucchati.
|
|
25. Như c̣ hương khóc bạn t́nh
lang,
Đơn độc bên bờ vắng đại dương,
Rực rỡ, Su-he (*) da óng ả
Sẽ c̣n thương tiếc măi quân vương.
--------
(*) Suhemà: tên hoàng hậu Thiên nga |
3938. Evaṃ mahanto lokassa
appameyyo mahāgaṇī,
ekitthimanusoceyya na idaṃ paññavatomiva.
|
|
26. Thiên nga vĩ đại, trí vô
song,
Lănh đạo anh minh của giống ḍng,
Sao phải ưu phiền v́ nữ giới,
Tỏ bày bao nhược điểm trong ḷng. |
3939. Vāto va gandhamādeti
ubhayaṃ chekapāpakaṃ,
bālo āmakapakkaṃ va lolo andho va āmisaṃ.
|
|
27. Như gió mang đi đủ thứ mùi
Dù là thơm ngát hoặc tanh hôi,
Tham lam như trẻ thành mù quáng
Ăn thức c̣n tươi hoặc chín rồi. |
3940. Avinicchayaññū atthesu
mandova paṭibhāsi maṃ,
kiccākiccaṃ na jānāsi sampatto kālapariyāyaṃ.
|
|
28. Không xét suy chân chánh
việc làm
Mê mờ, ngài chẳng thấy trên đàng
Việc ǵ cần tránh, ǵ làm được,
Trong lúc sa cơ, gặp hiểm nàn. |
3941. Aḍḍhummatto udīresi yo
seyyā maññasitthiyo,
bahusādhāraṇā hetā soṇḍānaṃva surāgharaṃ.
|
|
29. Hóa dại, ngài ca tụng má
hồng
Có đầy vẻ diễm lệ say ḷng;
Tầm thường, tuy vậy, là đa số,
Chẳng khác trà đ́nh của túy ông. |
Trang 342:
|
Trang 343:
|
3942. Māyā cesā marīcī ca soko
rogo cupaddavo,
kharā ca bandhanā cetā maccupāso guhāsayo,
tāsu yo vissase poso so naresu narādhamo.
|
|
30. Ưu phiền, bệnh tật với tai
ương,
Như xích xiềng, gông, cực bạo tàn,
Ảo ảnh, dối gian và cạm bẫy
Tử thần cất kín tận tâm can.
Nữ nhân đều thế, ai tin chúng
Hạ liệt quả là nhất thế gian! |
3943. Yaṃ vuddhehi upaññātaṃ ko
taṃ ninditumarahati,
mahābhūtitthiyo nāma lokasmiṃ udapajjisuṃ.
|
3943. “Phụ nữ được biết đến
do các sự tăng trưởng, người nào xứng đáng để chê bai phụ nữ.
Những người phụ nữ gọi là có đức tính vĩ đại đă sanh lên ở thế
gian. |
31. Bậc trí nh́n chân lư rơ
rành,
C̣n ai khiển trách, dám phê b́nh?
Nữ nhân sinh ở trong trần thế
Để hưởng đặc quyền với đại danh. |
3944. Khiḍḍā paṇihitā tyāsu rati
tyāsu patiṭṭhitā,
bījāni tyāsu rūhanti yadidaṃ sattā pajāyare,
tāsu ko nibbide poso pāṇamāsajja pāṇahi.
|
3944. Việc vui đùa được
h́nh thành ở các nàng ấy, sự thích thú được thiết lập ở các nàng
ấy, các mầm sống lớn lên trong (tử cung của) các nàng ấy, nghĩa
là các chúng sanh được sanh ra. Người nam nào có thể nhàm chán
các nàng ấy, sau khi đă kề cận hơi thở của các nàng ấy bằng
những hơi thở của bản thân? |
32. Nhi nữ sinh ra để cợt đùa,
T́nh yêu lạc thú được ban cho,
Hạt mầm nảy nở trong nhi nữ,
Nguồn gốc đời ta được hộ pḥ,
Từ đó nam nhân bừng nhịp thở,
Khó ḷng khinh thị đám quần thoa. |
3945. Tvameva nañño sumukha
thīnaṃ atthesu yuñjasi,
tassa tyājja bhaye jāte bhītena jāyate mati.
|
3945. Này Sumukha, chính
khanh, chứ không ai khác, gắn bó trong các nhu cầu đối với phụ
nữ. Hôm nay, khi nỗi sợ hăi của khanh đây đă sanh khởi, do kinh
sợ mà ư niệm được sanh ra. |
33. Riêng khanh, Sư-mục, có
tinh thông
Cung cách dung nghi đám má hồng,
Xúc động hăi kinh, khanh có thấy
Trí này sáng suốt muộn màng không? |
3946. Sabbo hi saṃsayaṃ patto
bhayaṃ bhīrū titikkhati,
paṇḍitā ca mahattāno atthe yuñjanti duyyuje.
|
3946. Bởi v́, khi đạt đến sự hoài nghi (về mạng sống),
tất cả (chúng sanh) đều cam chịu nỗi sợ hăi và khiếp đảm, c̣n
các bậc sáng suốt, có vị thế cao cả, gắn bó với những mục đích
khó gắn bó.
|
34. Khi một nam nhân gặp bất
an,
Giữa tai biến, chịu đựng can cường,
Trong cơn khủng hoảng bao hiền trí
Cố sức cho ta được thoát nàn. |
3947. Etadatthāya rājāno
sūramicchanti mantinaṃ,
paṭibāhati yaṃ sūro āpadaṃ attapariyāyaṃ.
|
|
35. Quân vương muốn gặp bậc
anh hùng
Để có người khuyên nhủ hộ pḥng
Chống nỗi kinh hoàng do nghịch cảnh,
Giải bày thích đáng, cứu nguy vong. |
3948. Mā no ajja vikantiṃsu rañño
sūdā mahānase,
tathāhi vaṇṇo pattānaṃ phalaṃ veḷuṃva taṃ vadhi.
|
|
36. Ta mong đầu bếp của hoàng
gia
Đừng nướng thân ta đă xác xơ,
Như trái cây tre thường giết mẹ
Bộ lông vàng cũng giết đời ta. |
3949. Mutto na icchi oḍḍetuṃ
sayaṃ bandhaṃ upāgami,
sopajja saṃsayaṃ patto atthaṃ gaṇhāhi mā mukhaṃ.
|
3949. Kẻ được tự do đă không muốn bay đi, tự ḿnh đă đi
vào sự giam cầm. Hôm nay, khanh đây đă đạt đến sự hoài nghi.
Khanh hăy nắm lấy mục đích, chớ miệng mồm.
|
37. Tự do, khanh chẳng muốn
bay đi,
Tự nguyện giam cầm để cứu nguy,
Giờ phút hiểm nghèo, đừng nói nữa,
Hăy hoàn thành sứ mạng nam nhi. |
Trang 344:
|
Trang 345:
|
3950. So taṃ yogaṃ payuñjassu
yuttaṃ dhammūpasaṃhitaṃ,
tavaṃ pariyāpadānena mama pāṇesanaṃ cara.
|
3950. Khanh đây hăy áp dụng phương pháp thích hợp, có
liên quan đến đạo lư ấy. Khanh hăy đi t́m kiếm mạng sống cho
trẫm theo phương thức của khanh.”
|
38. Gắng sức làm sao thật đúng
thời,
Với công bằng biện hộ như lời,
Anh hùng hành động, xin hiền hữu
Đem lại cho ta cả cuộc đời. |
3951. Mā bhāyi patataṃ seṭṭha
nahi bhāyanti tādisā,
ahaṃ yogaṃ payuñjissaṃ yuttaṃ dhammūpasaṃhitaṃ,
mama pariyāpadānena khippaṃ pāsā pamokkhasi.
|
|
39. Nga vương cao quư, chờ
kinh hoàng,
Kinh hăi chẳng là cách Đại vương,
Với lẽ công bằng, thần nỗ lực
Khẩn cầu vời lư luận khôn ngoan,
Bằng hành động hết ḷng can đảm
Lần nữa chúa công được thoát nàn. |
3952. Sa luddo haṃsakājena
rājadvāraṃ upāgami,
paṭivedetha maṃ rañño dhataraṭṭhāyamāgato.
|
|
40. Người săn chim đến cổng
hoàng gia,
Tiến lại gần cùng gánh nặng kia,
"Tŕnh tấu Đại vương, thần yết kiến,
Thưa rằng đây chính hiệu hồng nga". |
3953. Te disvā puññasaṅkāse ubho
lakkhaññasammate,
khalu saññamano rājā amacce ajjhabhāsatha.
|
|
41. Nh́n thấy đôi chim dáng
Thánh thần,
Tràn đầy quư tướng đẹp vô ngần,
Vua Sa-mya ấy liền lên tiếng
Cùng với lời trao đám cận thần: |
3954. Detha luddassa vatthāni
annaṃ pānañca bhojanaṃ,
kāmaṃ karo hiraññassa yāvanto esa icchati.
|
3954. “Hăy ban cho gă thợ săn các vải vóc, cơm, nước, và
vật thực. Hăy thực hiện ước muốn về vàng của gă; gă muốn chừng
nào th́ hăy ban cho gă chừng ấy.”
|
42. "Ban gă săn chim thức uống
ăn,
Loại mềm, y phục đẹp oai hùng,
Vàng ṛng cả khối màu hồng đỏ
Ban thật nhiều như dạ ước mong". |
3955. Disvā luddaṃ pasannattaṃ
kāsirājā tadābravi,
yadāyaṃ samma khemaka puṇṇā haṃsehi tiṭṭhati.
|
|
43. Đại vương nh́n thấy kẻ đi
săn,
Đẹp ư hân hoan, mới phán rằng:
"Hồ ấy, Khe-ma, đàn ngỗng đến
Hàng ngàn con để kiếm đồ ăn. |
3956. Kathaṃ ruciṃ majjhagataṃ
pāsahattho upāgami,
okiṇṇaṃ ñātisaṅghehi nimajjhimaṃ kathaṃ gahi.
|
3956. –làm thế nào với chiếc bẫy cầm tay mà khanh đă đi
đến gần con thiên nga đang vui chơi ở giữa bầy? Làm thế nào
khanh đă bắt được con thiên nga hạng nhất được che khuất bởi tập
thể thân quyến?”
|
44. Giữa cả đàn chim một giống
ḍng,
Làm sao khanh cố sức thi công
Chọn ra chim chúa này kiều diễm,
Và bắt Thiên nga vẫn sống chăng?" |
3957. Ajja me sattamā ratti
ādānāni upāsato,
padametassa anvesaṃ appamatto ghaṭassito.
|
|
45. Bảy ngày ṛng ră, dạ âu lo
Thần đă hoài công đánh dấu hồ,
T́m vết Thiên nga này tuyệt đẹp,
Ẩn ḿnh trong một cái lu to. |
3958. Athassa padamaddakkhiṃ
carato adanesanaṃ,
tatthāhaṃ odahiṃ pāsaṃ evetaṃ dijamaggahiṃ.
|
|
46. Hôm nay thần thấy băi chim
ăn
Mà chính Thiên nga đă đến gần;
Lập tức chỗ kia thần đặt bẫy,
Thiên nga phút chốc bị sa chân. |
3959. Ludda dve ime sakuṇā atha
ekoti bhāsasi,
cittannu te vipariyattaṃ ādu kinnu jigiṃsasi.
|
3959. “Này thợ săn, đây có hai con chim, mà khanh nói về
một con. Vậy có phải tâm của khanh bị lầm lẫn, hay là khanh ao
ước điều ǵ?”
|
47. Thợ săn tŕnh chỉ một chim
thôi,
Nhưng trẫm thấy đầy đủ cả đôi,
Nhầm lẫn ǵ chăng, khanh đến tặng
Trẫm đây thêm một chú chim trời? |
3960. Yassa lohitakā tāḷā
tapaneyyanibhā subhā,
uraṃ saṃhacca tiṭṭhanti so me bandhaṃ upāgami.
|
|
48. Thiên nga có những sọc
vàng hồng
Tất cả đều ṿng xuống dưới thân,
Đă bị bắt vào trong chiếc bẫy,
Thần dâng đây đúng lệnh Minh quân. |
Trang 346:
|
Trang 347:
|
3961. Athāyaṃ bhassaro pakkhī
abaddho baddhamāturaṃ,
ariyaṃ bruvāno aṭṭhāsi cajanto mānusiṃ giraṃ.
|
|
49. Chim tuyệt đẹp này được tự
do
Vẫn ngồi bên cạnh bạn sa cơ,
Dùng lời lẽ thế nhân êm dịu
Cố sức làm cho bạn khỏi lo. |
3962. Atha kinnu dāni sumukha
hanuṃ saṃhacca tiṭṭhasi,
ādu me parisaṃ patto bhayā bhīto na bhāsasi.
|
|
50. Sao ngươi im tiếng, hỡi
Thiên nga,
Ta đoán phải chăng bởi sợ ta,
Đến trước quân vương, ngươi diện kiến,
Mà sao chẳng thốt một lời ra? |
3963. Nāhaṃ kāsipati bhīto ogayha
parisaṃ tava,
nāhaṃ bhayā na bhāsissaṃ vākyaṃ atthasmiṃ tādise.
|
3963. “Tâu vị chúa của xứ Kāsi, tôi không bị khiếp đảm
sau khi đi vào hội chúng của bệ hạ. Khi có cơ hội như thế này,
không phải v́ sợ hăi mà tôi không nói ra lời.”
|
51. Ta chẳng sợ ǵ, tấu Đại
vương,
Khi trao lời giữa chốn triều đường,
Nếu cơ hội tốt nào đi đến,
Ta quyết sẽ không tránh luận bàn. |
3964. Na te abhisaraṃ passe na
rathe napi pattike,
nāssa cammaṃva kīṭaṃ vā vammite ca dhanuggahe.
|
|
52. Chẳng bầy xạ thủ mặc quân
bào,
Chẳng măo, chẳng da bảo hộ nào,
Không có tùy tùng người hoặc ngựa,
Cũng không xa, pháo để theo hầu. |
3965. Na hiraññaṃ suvaṇṇaṃ vā
nagaraṃ vā sumāpitaṃ,
okiṇṇaparikhaṃ duggaṃ daḷhamaṭṭālakoṭṭhakaṃ,
yattha paviṭṭho sumukha bhāyitabbaṃ na bhāyasi.
|
3965. –không vàng thô hay vàng ṛng, hoặc thành phố đă
khéo được kiến tạo với tường thành bao bọc, hiểm trở, với tháp
canh và trạm gác vững chải, này chim Sumukha, nơi nào người đă
đi vào, ngươi không sợ hăi vật đáng sợ hăi (ở nơi ấy).”
|
53. Chẳng thấy vàng đâu, chẳng
thị thành,
Chẳng lâu đài tráng lệ quang vinh,
Tháp canh không có, pḥng xâm phạm
Với lũy hào bao bọc bản doanh
Do tướng Mục-kha xây dựng vậy,
Không ǵ đáng sợ ở bên ḿnh. |
3966. Na me abhisarenattho
nagarena dhanena vā,
apathena pathaṃ yāma antalikkhe carā mayaṃ.
|
|
54. Chẳng ai bảo vệ, hoặc quân
canh,
Chẳng muốn kim ngân hoặc thị thành,
Giữa chốn không gian, ta kiếm lối
Vân du khắp cả cơi trời xanh. |
3967. Sutāva paṇḍitā tyamhā
nipuṇā atthacintakā,
bhāsematthavatiṃ vācaṃ saccevassa patiṭṭhito.
|
3967. Chúng tôi đă được
nghe nói là sáng suốt, khôn khéo, có sự suy nghĩ tốt đẹp. Nếu bệ
hạ đă an trú ở sự chân thật, chúng tôi sẽ nói lời nói có lợi
ích. |
55. Nếu ngài an trú lư Như
chân,
Ta ước mong tuyến thuyết, Đại vương,
Bài học giúp cho ngài lợi lạc,
Bằng lời tinh tế lại khôn ngoan. |
3968. Kiñca tuyhaṃ asaccassa
anariyassa karissati,
musāvādissa luddassa bhaṇitampi subhāsitaṃ.
|
3968. Và nếu bệ hạ không chân thật, không cao thượng, có
lời nói dối trá, tàn bạo, th́ lời khéo nói được nói ra sẽ làm
được điều ǵ cho bệ hạ?
|
56. Song nếu Đại vương chỉ dối
gian,
Một người tâm tính thật tồi tàn,
Lời người đặt bẫy này hùng biện
Chẳng ích ǵ cầu khẩn Đại vương. |
3969. Taṃ brāhmaṇānaṃ vacanā imaṃ
khemiṃ akārayi,
abhayañca tayā ghuṭṭhaṃ imāyo dasadhā disā.
|
|
57. Nghe lời các vị Bà-la-môn,
Ngài dựng hồ lạc lẫy lừng,
Và đă truyền rao khắp thập hướng:
An toàn đây chỗ của chim muông. |
3970. Ogayha te pokkharaṇiṃ
vippasannodakaṃ suciṃ,
pahūtañcādanaṃ tattha ahiṃsā cettha pakkhinaṃ.
|
|
58. Trong chốn hồ này thật
tịnh thanh,
Các ḍng nước phẳng lặng, trong xanh,
Chim muông thấy thức ăn phong phú
Sống cuộc đời an ổn trọn lành. |
Trang 348:
|
Trang 349:
|
3971. Idaṃ sutvāna nigghosaṃ
āgatamhā tavantike,
te te baddhasmā pāsena etaṃ te bhāsitaṃ musā.
|
|
59. Nghe tiếng đồn này vọng
thật xa,
Chúng ta thăm cảnh đẹp hoàng gia,
Than ôi! Mắc bẫy, ta t́m thấy
Lời hứa Quân vương hóa phỉnh phờ. |
3972. Musāvādaṃ purakkhatvā
icchālobhañca pāpakaṃ,
ubhosandhiṃ atikkamma asātaṃ upapajjati.
|
|
60. Song lời dối trá khéo bao
che
Hành động tham lam tội lỗi kia
Chẳng tái sinh thiên, người thế tục,
Thẳng đường địa ngục sẽ đưa về. |
3973. Nāparajjhāma sumukha napi
lobhā vamaggahiṃ,
sutā ca paṇḍitātyattha nipuṇā atthacintakā.
|
|
61. Mục-kha, trẫm chẳng phạm
sai lầm,
Trẫm chẳng bắt chim bởi dục tâm,
Đây chính nguyên nhân gây việc ấy:
Danh ngươi thông tuệ, trí cao thâm. |
3974. Appevatthavatiṃ vācaṃ
vyākareyyuṃ idhāgatā,
tathā taṃ samma nesādo vutto sumukha maggahi.
|
|
62. "Nơi đây chắc hẳn chúng
nêu ra
Chân thật, những lời ích lợi ta",
Nên kẻ bẫy chim, ta hạ lệnh,
Đem ngươi về đó, hỡi Thiên nga. |
3975. Neva bhītā kāsipati
upanītasmiṃ jīvite,
bhāsematthavatiṃ vācaṃ sampattā kālapariyāyaṃ.
|
|
63. Ta chẳng thể tuyên thuyết
thật chân,
Khi ta kinh hăi chết kề gần,
Cũng không hít thở hơi từ giă
Hấp hối phút giây của tử thần. |
3976. Yo migena migaṃ hanti
pakkhiṃ vā pana pakkhinā,
sutena vā sutaṃ kiṇe kiṃ anariyataraṃ tato.
|
3976. Kẻ nào giết thú bằng thú mồi (đă được huấn luyện),
hoặc giết chim bằng chim mồi, hoặc có thể cưỡng bức người thuyết
giảng bằng tin đồn thất thiệt, có việc nào khác thô bỉ hơn việc
ấy?
|
64. Ai muốn lấy chim để bẫy
mồi,
Săn mồi bằng thú dữ t́m ṭi,
Pháp sư đánh bẫy bằng bài giảng,
Kẻ ấy không sao khỏi đọa rồi. |
3977. Yo ca ariyarudaṃ bhāse
anariyadhammamavassito,
ubho so dhaṃsate lokā idha ceva parattha ca.
|
|
65. Ai buông lời lẽ thật cao
sang,
Dự định hành vi hạ liệt tràn,
Th́ ở đời này, đời kế nữa,
Sa từ hạnh phúc đều đau buồn. |
3978. Na majjetha yasaṃ patto na
vyathe pattasaṃsayaṃ,
vāyametheva kiccesu saṃvare vivarāni ca.
|
3978. Không nên say đắm khi đạt được danh vọng, không nên
sầu khổ khi (lâm cảnh hiểm nghèo) có sự hoài nghi về mạng sống,
nên nỗ lực trong các việc cần phải làm và nên che đậy các khuyết
điểm.
|
66. Đừng say sưa quá phút vinh
quang,
Cũng chớ khổ đau lúc hiểm nàn,
Hăy sửa lỗi lầm thành tốt đẹp,
Hết ḷng phấn đấu trước tai ương. |
3979. Ye vaddhā abbhatikkantā
sampattā kālapariyāyaṃ,
idha dhammaṃ caritvāna evete tidivaṃ gatā.
|
|
67. Bậc trí đến khi cuối cuộc
đời,
Đă nh́n thấy đích tử thần rồi,
Sống trên trần đúng đường chân chánh,
Theo hướng đi lên đến cơi trời. |
3980. Idaṃ sutvā kāsipati
dhammamattani pālaya,
dhataraṭṭhañca muñcāhi haṃsānaṃ pavaruttamaṃ.
|
|
68. Nghe những lời này, giữ
chánh chân,
Mau mau giải phóng, hỡi Minh quân,
Dha-ta-ra ấy là chim chúa
Tuyệt thế Thiên nga giữa cả đàn. |
3981. Āharantūdakaṃ pajjaṃ
āsanañca mahārahaṃ,
pañjarato pamokkhāmi dhataraṭṭhaṃ yasassinaṃ.
|
|
69. Mau hăy đi t́m nước rửa
chân,
Đem vào đây cả chiếc kim đôn,
Hăy nh́n trẫm thả từ lồng ấy
Tối thượng Thiên nga ở cơi trần. |
Trang 350:
|
Trang 351:
|
3982. Tañca senāpatiṃ dhīraṃ
nipuṇaṃ atthacintakaṃ,
yo sukho sukhito rañño dukkhite hoti dukkhito.
|
|
70. Cùng bậc anh hùng đại
tướng quân,
Thật là tài giỏi lại tinh thông,
Dầu khi hoạn nạn hay vinh hiển
Đều dạy thiết thân với chúa công. |
3983. Etādisā kho arahanti
piṇḍamasnātu bhattuno,
yathāyaṃ sumukho rañño pāṇasādhāraṇo sakhā.
|
|
71. Bậc chân chánh ấy xứng uy
danh
Theo bước chúa công suốt lộ tŕnh,
V́ đă sẵn sàng trang bị đủ
Với vua chia xẻ tử cùng sinh. |
3984. Pīṭhañca sabbasovaṇṇaṃ
aṭṭhapādaṃ manoramaṃ,
maṭṭhaṃ kāsikapatthinnaṃ dhataraṭṭho upāvisi.
|
|
72. Chim chúa ngự trên một
chiếc ngai,
Tám chân ngời chói, đặc vàng thoi
Bên ngoài có lụa Kà-si phủ,
Quang cảnh này trông thật tuyệt vời. |
3985. Kocchañca sabbasovaṇṇaṃ
veyyagghaparisibbitaṃ,
sumukho ajjhupāvekkhi dhataraṭṭhassa anantaraṃ.
|
|
73. Sư-mục ngồi bên cạnh Điểu
vương,
Tướng công trung tín lại can cường,
Ở trên bảo tọa trùm da hổ,
Tất cả đều nguyên cả khối vàng. |
3986. Tesaṃ kañcanapattehi puthu
ādāya kāsiyo,
haṃsānaṃ abhihāresuṃ aggaṃ rañño pavāsitaṃ.
|
|
74. Nhiều chúa Kà-si đựng chén
vàng
Chọn đầy thực phẩm đủ cao lương,
Mang vào mời cặp Thiên nga ấy
Tặng vật cúng dâng của Đại vương. |
3987. Disvā abhihaṭaṃ aggaṃ
kāsirājena pesitaṃ,
kusalo khattadhammānaṃ tato pucchi anantarā.
|
|
75. Nghĩ thầm? "Lễ vật thật
cao sang
Chúa tể Kà-si đă cúng dường,
Thông hiểu triều nghi nên ngỗng chúa
Như vầy cất tiếng hỏi quân vương. |
3988. Kacci bhoto kusalaṃ kacci
bhoto anāmayaṃ,
kacci raṭṭhamidaṃ phītaṃ dhammenamanusissati.
|
|
76. "Đại vương, ngọc thể có
khang an,
Vạn sự Đại vương thảy vẹn toàn,
Quư quốc hẳn là đang thịnh vượng,
Được ngài cai trị thật công bằng?" |
3989. Kusalañceva me haṃsa atho
haṃsa anāmayaṃ,
atho raṭṭhamidaṃ phītaṃ dhammenamanusissati.
|
|
77. Nga vương, trẫm vẫn được
khang an,
Vạn sự trẫm đây được vẹn toàn,
Bổn quốc hiện giờ rất thịnh vượng,
Hưởng nền cai trị thật công bằng. |
3990. Kacci bhoto amaccesu doso
koci na vijjati,
kaccinnu te tavatthesu nāvakaṅkhanti jīvitaṃ.
|
|
78. Ngài có triều thần thật
chánh chân,
Biết khuyên nhủ chúa, chẳng sai lầm,
Nếu cần, họ sẵn sàng liều chết
V́ chánh nghĩa và danh chúa công? |
3991. Atho pi me amaccesu doso
koci na vijjati,
atho pi te mamatthesu nāvakaṅkhanti jīvitaṃ.
|
|
79. Trẫm có triều thần thật
chánh chân,
Biết khuyên nhủ trẫm, chẳng sai lầm,
Nếu cần, họ sẵn sàng liều chết
V́ chánh nghĩa và danh quả nhân. |
3992. Kacci te sādisī bhariyā
assavā piyabhāṇinī,
puttarūpayasūpetā tava chandavasānugā.
|
|
80. Phải chăng hoàng hậu cũng
chung ḍng,
Lời lẽ ôn nhu, biết phục ṭng,
Diễm lệ, nhiều con, danh tiếng tốt,
Vâng ch́u mọi Thánh ư Minh quân? |
3993. Atho me sādisī bhariyā
assavā piyabhāṇinī,
puttarūpayasūpetā mama chandasānugā.
|
|
81. Trẫm nay có chánh hậu
chung ḍng,
Lời lẽ ôn nhu, biết phục ṭng,
Diễm lệ, nhiều con, danh tiếng tốt,
Vâng ch́u mọi ư trẫm cầu mong. |
3994. Kacci raṭṭhaṃ anuppīḷaṃ
akutoci upaddavaṃ,
asāhasena dhammena samena manusissati.
|
|
82. Và nay quốc độ lạc an
chăng,
Thoát được bao đàn áp bạo tàn,
Chẳng chịu độc tài, chuyên chế trị,
Hưởng nền cai trị thật công bằng? |
Trang 352:
|
Trang 353:
|
3995. Atho raṭṭhaṃ anuppīḷaṃ
akutoci upaddavaṃ,
asāhasena dhammena samena manusissati.
|
|
83. Ngày nay vương quốc trẫm
b́nh an
Thoát được bao đàn áp bạo tàn,
Chẳng chịu độc tài, chuyên chế trị,
Hưởng nền cai trị thật công bằng. |
3996. Kacci santo apacitā asanto
parivajjitā,
no ce dhammaṃ niraṅkatvā adhammamanuvattasi.
|
|
84. Có xua ác đảng khỏi giang
san
Đưa các thiện nhân đến vẻ vang,
Ngài có tránh xa điều chánh trực,
Hoặc theo đường lối bọn tà gian? |
3997. Santo ca me apacitā asanto
parivajjitā,
dhammamevānuvattāmi adhammo me niraṅkato.
|
|
85. Trẫm xua ác đảng khỏi
giang san,
Đưa các thiện nhân đến vẻ vang,
Trẫm quyết tránh xa bao ác hạnh,
Và theo đường lối bậc hiền lương. |
3998. Kacci nānāgataṃ dīghaṃ
samavekkhasi khattiya,
kacci na matto madanīye paralokaṃ na santasi.
|
3998. “Tâu vị Sát-đế-lỵ, bệ hạ có quan tâm (mạng sống ở)
tương lai là không dài lâu không? Bệ hạ có không say đắm các đối
tượng làm cho say đắm không? Bệ hạ có không hăi sợ về kiếp sống
sau không?”
|
86. Đại vương có thấy quăng
đời ḿnh
Đă vụt trôi qua thật quá nhanh,
Hăy măi say sưa v́ vọng tưởng
Nh́n thấy đời sau chẳng hăi kinh? |
3999. Nāhaṃ anāgataṃ dīghaṃ
samavekkhāmi pakkhima,
ṭhito dasasu dhammesu paralokaṃ na santase.
|
|
87. Thiên nga, trẫm thấy quăng
đời ḿnh
Đă vụt trôi qua thật quá nhanh,
Nên vẫn hành tŕ Mười giới hạnh
Chẳng hề kinh hăi cơi lai sinh. |
4000. Dānaṃ sīlaṃ pariccāgaṃ
ajjavaṃ maddavaṃ tapaṃ,
akkodhaṃ avihiṃsañca khantiñca avirodhanaṃ.
|
4000. Bố thí, tŕ giới, thí xả, ngay thẳng, nhu ḥa, khắc
khổ, không giận dữ, không hăm hại, nhẫn nại, và không đối chọi.
|
88. Bố thí, ăn năn, trí chánh
chân,
Ôn nhu, hiền dịu, chuộng b́nh an,
Từ bi, nhẫn nhục, đầy thân ái,
Đạo đức không ô nhiễm bụi trần. |
4001. Iccete kusale dhamme ṭhite
passāmi attani,
tato me jāyate pīti somanassañcanappakaṃ.
|
|
89. Những điều đức hạnh tận
tâm can
Vững chắc vươn lên, thấy rơ ràng,
Từ đó nảy sinh nguồn hạnh phúc,
Hân hoan cho trẫm quư muôn vàn. |
4002. Sumukho ca acintetvā
vissaji pharusaṃ giraṃ,
bhāvadosamanaññāya asmākāyaṃ vihaṅgamo.
|
4002. C̣n con chim Sumukha này không suy nghĩ, không biết
rơ khuyết điểm về bản thể của chúng tôi, nên đă tuôn ra lời nói
khiếm nhă.
|
90. Song dù Sư-mục chẳng hề
hay
Tội ác trẫm đâu có phạm này,
Vẫn cứ vô t́nh tuôn xối xả
Những lời thô lỗ, giọng nồng cay. |
4003. So kuddho pharusaṃ vācaṃ
nicchāresi ayoniso,
yānasmāsu na vijjanti na idaṃ paññavatāmiva.
|
|
91. Ta chẳng biết chi các việc
này,
Chim kia đổ trách nhiệm lầm đây,
Nói năng thô lỗ. Nên ta nghĩ:
Trí tuệ yếu non đă hiển bày. |
4004. Atthi metaṃ atisāraṃ vegena
manujādhipa,
dhataraṭṭhe ca baddhasmiṃ dukkhaṃ me vipulaṃ ahu.
|
|
92. Thần đă lỗi lầm với Đại
vương,
Nói năng bừa băi thật điên cuồng,
Song khi chim chúa này lâm nạn,
Ḷng của hạ thần tựa nát tan. |
4005. Tvaṃ no pitāva puttānaṃ
bhūtānaṃ dharaṇīriva,
asmākaṃ adhipannānaṃ khamassu rājakuñjara.
|
|
93. Như đất chứa đầy mọi chúng
sinh,
Như người cha đối với con ḿnh,
Đại vương, xin rộng ḷng tha thứ
Lỗi chúng thần đây phạm đă đành. |
4006. Etaṃ te anumodāma yaṃ
bhāvaṃ na nigūhasi,
khīlaṃ pabhindasī pakkhi ujukosi vihaṅgama.
|
4006. “Trẫm tùy hỷ với việc này của khanh, về việc khanh
không che giấu bản thể. Khanh đă phá tan sự ngăn cách. Này chim,
khanh thật thẳng thắn.”
|
94. Trẫm cám ơn Sư-mục tướng
quân,
Khanh không hề dấu tính chơn thuần,
Khanh làm nhụt chí ta cương quyết
Trẫm thấy khanh cương trực, thật chân. |
Trang 354:
|
Trang 355:
|
4007. Yaṃ kiñci ratanaṃ atthi
kāsirājanivesane,
rajataṃ jātarūpañca muttā veḷuriyā bahū.
|
|
95. Những ǵ châu báu với kim,
ngân,
Bảo vật, ngọc trai, hoặc ngọc hồng
Ở tại Kà-si thành của trẫm,
Trữ trong kho báu chốn hoàng cung. |
4008. Maṇayo saṅkhamuttañca
vatthakaṃ haricandanaṃ,
ajinaṃ dantabhaṇḍañca lohaṃ kālāyasaṃ bahuṃ,
etaṃ dadāmi vo vittaṃ isseraṃ vissajāmi vo.
|
|
96. Đồng, sắt, vỏ ṣ, với ngọc
trai,
Bảo châu vô số, đám ngà voi
Gỗ chiên-đàn quư màu vàng ánh,
Y phục cao sang, da hổ, nai,
Tất cả kho tàng, quyền trị nước,
Trẫm xin ban tặng hết cho ngài. |
4009. Addhā apacitā tyamhā
sakkatā ca rathesabha,
dhammesu vattamānānaṃ tvaṃ no ācariyo bhava.
|
4009. “Quả thật chúng tôi đă được bệ hạ nể trọng và tôn
vinh, tâu đấng thủ lănh xa binh, trong lúc chúng tôi tiến hành
các thiện pháp, bệ hạ hăy là vị thầy của chúng tôi.
|
97. Ngài muốn làm vinh dự
chúng thần,
Xin hăy vui ḷng, tấu Đại quân,
Làm Đạo sư cho thần học hỏi
Mười điều vương pháp để an dân. |
4010. Ācariyasamanuññātā tayā
anumatā mayaṃ,
taṃ padakkhiṇato katvā ñātī passemarindama.
|
|
98. Rồi nếu chúng thần được
Đại vương
Chuẩn phê đồng ư, lạc an tràn,
Chúng thần xin phép ngài từ biệt,
Và trở về thăm viếng họ hàng. |
4011. Sabbarattiṃ cintayitvā
mantayitvā yathā tathaṃ,
kāsirājā anuññāsi haṃsānaṃ pavaruttamaṃ.
|
|
99. Kà-si chúa tể, suốt đêm
thâu,
Ch́m đắm trong tư tưởng thật sâu,
Sau đó vua bằng ḷng chấp thuận
Theo lời vương điểu ấy yêu cầu. |
4012. Tato ratyā vivasane
suriyassuggamanaṃ pati,
pekkhato kāsirājassa bhavanā te vigāhisuṃ.
|
4012. Sau đó, vào lúc cuối đêm, khi mặt trời mọc lên,
trong lúc đức vua xứ Kāsi đang nh́n xem, hai con chim ấy đă lao
đi từ cung điện của đức vua.
|
100. Cũng vừa lúc ấy mặt trời
lên,
Ngày tỏa sáng dần mất bóng đêm,
Phút chốc đôi chim vừa khuất bóng
Trong vùng sâu thẳm của thanh thiên. |
4013. Te aroge anuppatte disvāna
parame dije,
keketi makaruṃ haṃsā puthusaddo ajāyatha.
|
|
101. Nh́n chủ tướng chim được
vạn an
Trở về từ cơi chết nhân gian.,
Đàn chim vỗ cánh kêu ầm ĩ
Chào đón chúa chim lại họp đàn. |
4014. Te patītā pamuttena
bhattunā bhattugāravā,
samantā parikariṃsu aṇḍajā laddhapaccayā.
|
|
102. Vây quanh chúa tể chúng
tôn sùng,
Tin tưởng, giờ đây đám ngỗng hồng
Kính cẩn nghiêng ḿnh chào chúa tể,
Hân hoan v́ chúa được an thân. |
4015. Evaṃ mittavataṃ atthā sabbe
honti padakkhiṇā,
haṃsā yathā dhataraṭṭhā ñātisaṅghamupāgamun ”ti.
|
|
103. Ai có từ tâm ắt đạt thành
.
Việc ǵ các vị ấy thi hành,
Như Thiên nga trở về bằng hữu
Lần nữa đôi chim được trọn lành.
Câu chuyện
534 |
Mahāhaṃsajātakaṃ.
*** |
Đại Bổn Sanh Thiên Nga. [534]
*** |
<Trang trước> |
<Trang Kế> |