III. MAHĀVAGGO - ĐẠI PHẨM (tiếp theo)
|
Buddha
Jayanti Tripitaka Series (BJTS) - Tạng Sri Lanka |
Lời tiếng Việt:
(văn xuôi) Tỳ khưu Indacanda
|
Lời tiếng Việt:
(văn vần) HT. Thích Minh Châu |
11. NĀLAKASUTTAṂ
|
11. KINH
NĀLAKA
|
11. KINH
NĀLAKA
|
682. Ānandajāte tidasagaṇe patīte
sakkacca indaṃ sucivasane ca deve,
dussaṃ gahetvā atiriva thomayante
asito isi addasa divāvihāre.
|
682. Vị ẩn sĩ Asita, vào lúc nghỉ
trưa, đă nh́n thấy chư Thiên thuộc hội chúng cơi Tam Thập tràn
đầy niềm hoan hỷ, vui thích, có y phục sạch sẽ, tôn kính Thiên
Chủ Inda, đang cầm lấy vải vóc, và tán dương một cách nhiệt
liệt. |
679. Ẩn sĩ Asita (A-tư-đà),
Trong lúc giữa ban ngày,
Thấy chúng các chư Thiên
Cơi trời Ba mươi ba,
Họ hoan hỷ vui vẻ,
Với y áo, thanh tịnh,
Họ cung kính In-đa,
Các vị ấy cầm áo
Với nhiệt t́nh nói lên,
Những lời khen tán thán. |
683. Disvāna deve muditamane udagge
cittiṃ karitvā idamavocāsi tattha,
kiṃ devasaṅgho atiriva kalyarūpo
dussaṃ gahetvā bhamayatha kiṃ paṭicca.
|
683. Sau khi nh́n thấy chư Thiên
có tâm ư vui mừng, phấn khởi, vị ấy đă thể hiện sự quan tâm, và
tại nơi ấy đă nói điều này: “Tại sao
hội chúng chư Thiên có dáng vẻ vô cùng mừng rỡ thế? Liên quan
đến việc ǵ mà quư vị cầm lấy vải vóc quây ṿng ṿng vậy?
|
680. Thấy chư Thiên hoan hỷ,
Dơng dạc và phấn chấn,
Với tâm tư cung kính,
Ở đây, vị ấy nói.
Asita:
V́ sao chúng chư Thiên
Lại nhiệt t́nh hoan hỷ?
Họ cầm áo vui múa,
Là do nhân duyên ǵ? |
684. Yadāpi āsi asurehi saṅgamo
jayo surānaṃ asurā parājitā,
tadāpi netādiso lomahaṃsano
kiṃ abbhutaṃ daṭṭhu marū pamoditā.
|
684.
Mặc dầu vào lúc có cuộc chiến tranh với các A-tu-la, chiến thắng
là thuộc về chư Thiên, c̣n các A-tu-la bị thất trận, vào lúc ấy
cũng đă không có việc rởn lông như thế này. Vậy sau khi nh́n
thấy điều phi thường ǵ mà các vị Thiên Thần thích thú?
|
681. Trong thời gian chiến trận,
Với các A-tu-la,
Dũng sĩ được thắng trận
A-tu-la bại trận,
Thời gian ấy họ không,
Lông tóc dựng ngược dậy,
Họ thấy ǵ hy hữu,
Chư Thiên hoan hỷ vậy. |
685. Selenti gāyanti ca vādayanti ca
bhujāni poṭhenti ca naccayanti ca,
pucchāmi vohaṃ merumuddhavāsine
dhunātha me saṃsayaṃ khippamārisā.
|
685.
Các vị hú vang, ca hát, tấu nhạc, đập
vỗ các cánh tay, và nhảy múa. Thưa các ngài, tôi xin hỏi các
ngài, những cư dân ở đỉnh núi Meru, xin các ngài hăy mau chóng
giũ bỏ điều nghi hoặc của tôi.”
|
682. Họ la lớn ca hát,
Và họ tấu nhạc trời,
Họ múa tay, vỗ tay,
Họ múa nhảy vũ điệu,
Nay ta hỏi các Ông,
Trú đảnh núi Meru (Tu-di),
Các Ngài hăy mau chóng,
Giải tỏa điều ta nghĩ. |
686. So bodhisatto ratanavaro atulyo
manussaloke hitasukhatāya jāto,
sakyāna gāme janapade lumbineyye
tenamha tuṭṭhā atiriva kalyarūpā.
|
686. “Đức
Bồ Tát ấy là vật báu quư giá, không thể sánh bằng, v́ sự lợi ích
và hạnh phúc (của chúng sanh) đă sanh ra ở thế giới loài người,
tại ngôi làng của những người Sakya, thuộc xứ sở Lumbinī; chúng
tôi phấn chấn, có dáng vẻ vô cùng mừng rỡ bởi v́ điều ấy.
|
Chư Thiên:
683. Tại xứ Lumbini (Lâm-t́-ni)
Trong làng các Thích-ca,
Có sanh vị Bồ-tát,
Báu tối thắng, vô tỷ,
Ngài sanh, đem an lạc,
Hạnh phúc cho loài Người,
Do vậy chúng tôi mừng,
Tâm vô cùng hoan hỷ. |
687. So sabbasattuttamo aggapuggalo
narāsabho sabbapajānamuttamo,
vattessati cakkaṃ isivahaye vane
nadaṃ va sīho balavā migābhibhū.
|
687.
Ngài là bậc tối thượng của tất cả chúng sanh, là con người cao
cả, đấng Nhân Ngưu, bậc tối thượng của tất cả loài người. Tựa
như con sư tử hùng mạnh, chúa tể của loài thú, đang gầm thét,
Ngài sẽ chuyển vận bánh xe ở khu rừng tên Isi.” |
684. Ngài, chúng sanh tối thượng,
Ngài loài Người tối thắng,
Bậc Ngưu vương loài Người,
Thượng thủ mọi sanh loại;
Ngài sẽ chuyển Pháp Luân,
Trong khu rừng ẩn sĩ,
Rống tiếng rống sư tử,
Hùng mạnh nhiếp loài thú. |
688. Taṃ saddaṃ sutvā turitamavaṃsarī so
suddhodanassa tadā bhavanaṃ upāgami,
nisajja tattha idamavocāsi sakye
kuhiṃ kumāro ahamapi daṭṭhukāmo.
|
688. Sau khi nghe được lời nói
ấy, vị ấy đă vội vă đi xuống, rồi đă đi đến chỗ cư ngụ của (vua)
Suddhodana, sau khi ngồi xuống ở tại chỗ ấy, đă nói với các vị
ḍng Sakya điều này: “Hoàng tử ở đâu?
Tôi cũng muốn chiêm ngưỡng.” |
685. Sau khi nghe lời ấy,
Ẩn sĩ Asita,
Liền vội vàng bước xuống,
Và đi đến lâu đài,
Của đức vua Tịnh Phạn.
Đến nơi Ngài ngồi xuống,
Nói với các Thích-ca:
"Hoàng tử nay ở đâu,
Ta nay muốn thấy Ngài". |
689. Tato kumāraṃ jalitamiva suvaṇṇaṃ
ukkāmukhe’va sukusalasampahaṭṭhaṃ,
daddallamānaṃ siriyā anomavaṇṇaṃ
dassesu puttaṃ asitavhayassa sakyā. |
689. Sau đó, các vị ḍng Sakya đă
tŕnh cho vị (ẩn sĩ) tên Asita thấy người con trai (của họ), vị
hoàng tử sáng chói với sự vinh quang, có màu sắc tuyệt vời, tựa
như khối vàng đă được đốt cháy, đă được nung nấu ở ngay cửa
miệng của bễ ḷ rèn bởi người (thợ rèn) vô cùng thiện xảo.
|
686. Thấy Thái tử chói sáng
Rực rỡ như vàng chói
Trong ḷ đúc nấu vàng,
Được thợ khéo luyện thành,
Bừng sáng và rực rỡ,
Với dung sắc tuyệt mỹ,
Họ Thích tŕnh Thái tử,
Cho ẩn sĩ Tư-đà. |
690. Disvā kumāraṃ sikhimiva pajjalantaṃ
tārāsabhaṃ va nabhasigamaṃ visuddhaṃ,
suriyaṃ tapantaṃ saradarivabbhamuttaṃ
ānandajāto vipulamalattha pītiṃ.
|
690. Sau khi nh́n thấy vị hoàng
tử tựa như ngọn lửa đang phát sáng, thanh tịnh tựa như chúa của
các v́ sao (mặt trăng) đang di chuyển ở bầu trời, tựa như mặt
trời đang cháy sáng sau khi đă được thoát khỏi đám mây mùa thu,
(vị ẩn sĩ) tràn đầy niềm hoan hỷ, đă đạt được pháp hỷ tràn trề.
|
687. Sau khi thấy Thái tử
Chói sáng như lửa ngọn,
Thanh tịnh như sao Ngưu
Vận hành giữa hư không,
Sáng chiếu như mặt trời
Giữa trời thu, mây tịnh,
Ẩn sĩ tâm hân hoan
Được hỷ lạc rộng lớn. |
691. Anekasākhañca sahassamaṇḍalaṃ
chattaṃ marū dhārayumantalikkhe,
suvaṇṇadaṇḍā vītipatanti cāmarā
na dissare cāmarachattagāhakā. |
691. Các vị Thiên Thần đă nắm giữ
ở không trung chiếc lọng có nhiều thanh nan, có ngàn khoanh
tṛn, và phe phẩy tới lui những cây phất trần có tay cầm bằng
vàng; những người nắm giữ các cây phất trần và chiếc lọng không
được nh́n thấy. |
688. Chư Thiên cầm ngôi lọng
Đưa lên giữa hư không,
Cây lọng có nhiều cành,
Có hàng ngàn ṿng chuyền.
Họ quạt với phất trần,
Có tán vàng, lông thú,
Nhưng không ai thấy được,
Kẻ cầm lọng, phất trần. |
692. Disvā jaṭī kaṇhasirivhayo isi
suvaṇṇanekkhaṃ viya paṇḍukambale,
setañca chattaṃ dhariyanta muddhani
udaggacitto sumano paṭiggahe. |
692. Sau khi
nh́n thấy (vị hoàng tử) tựa như vật trang sức bằng vàng ở tấm
chăn len màu đỏ, có chiếc lọng trắng đang được duy tŕ ở trên
đầu, vị ẩn sĩ bện tóc tên Kaṇhasiri, với tâm phấn khởi, thích ư,
đă (đưa tay) tiếp nhận.
|
689. Bậc ẩn sĩ bện tóc,
Tên Kà-ha-xi-ri,
Thấy Thái tử nằm dài
Trên tấm chăn màu vàng,
Như đồng tiền bằng vàng,
Lại trên đầu Thái tử
Có lông trắng đưa lên,
Tâm ẩn sĩ phấn khởi,
Đẹp ư, ḷng hân hoan
Đưa tay bồng Thái tử. |
693. Paṭiggahetvā pana sakyapuṅgavaṃ
jigiṃsako lakkhaṇamattapāragū,
pasannacitto giramabbhudīrayi
anuttarāyaṃ dipadānamuttamo. |
693. Hơn nữa, sau khi (đưa tay)
tiếp nhận con người quư phái ḍng Sakya, trong lúc xem xét, bậc
tinh thông về tướng số và chú thuật, với tâm tịnh tín đă thốt
lên lời nói rằng: “Vị này là bậc vô
thượng, là đấng tối thượng của loài người.” |
690. Sau khi ẩm bồng lên
Con trai ḍng họ Thích,
Bậc cầu đạo t́m hiểu,
Vượt khổ, nhờ tướng, chú,
Tâm tư được hoan hỷ,
Thốt lên lời như sau:
Vị này bậc Vô thượng,
"Tối thượng loài hai chân". |
694. Athattano gamanamanussaranto
akalyarūpo galayati assukāni,
disvāna sakyā isimavocuṃ rudantaṃ
no ce kumāre bhavissati antarāyo. |
694. Rồi trong khi suy xét về số
phận của bản thân, (vị ẩn sĩ) với dáng vẻ sầu thảm, tuôn rơi
những giọt nước mắt. Sau khi nh́n thấy vị ẩn sĩ đang khóc lóc,
những người ḍng Sakya đă nói rằng: “Sẽ
không có tai họa ǵ cho hoàng tử phải không?” |
691. Khi vị ấy nghĩ đến,
Số mệnh của tự ḿnh,
Số mệnh không tốt đẹp,
Vị ấy rơi nước mắt,
Thấy vậy, các Thích-ca,
Hỏi ẩn sĩ đang khóc;
"Có sự ǵ chướng ngại
Sẽ xảy cho Thái tử?". |
695. Disvāna sakye isimavoca akalye
nāhaṃ kumāre ahitamanussarāmi,
na cāpi massa bhavissati antarāyo
na orakoyaṃ adhimānasā bhavātha. |
695. Sau khi nh́n thấy những
người ḍng Sakya sầu thảm, vị ẩn sĩ đă nói rằng: “Tôi
không nghiệm thấy điều ǵ bất lợi cho hoàng tử, và cũng sẽ không
có tai họa ǵ cho vị này. Vị này không phải là thấp thỏi, các
người hăy an tâm. |
692. Thấy họ Thích lo lắng,
Vị ẩn sĩ trả lời:
"Ta không thấy bất hạnh
Xảy đến cho Thái tử,
Đối với Thái tử ấy,
Chướng ngại sẽ không có,
Vị này không hạ liệt,
Chớ có lo lắng ǵ. |
696. Sambodhiyaggaṃ phusissatāyaṃ kumāro
so dhammacakkaṃ paramavisuddhadassī,
vattessatāyaṃ bahujanahitānukampī
vitthārikassa bhavissati brahmacariyaṃ. |
696.
Vị hoàng tử này sẽ thành tựu quả vị Toàn Giác tối cao. Vị này,
có sự nh́n thấy (Niết Bàn) thanh tịnh tối thượng, có ḷng thương
tưởng đến sự lợi ích cho nhiều người, sẽ chuyển vận bánh xe
Pháp. Phạm hạnh (Giáo Pháp) của vị này sẽ được lan rộng.
|
693. Thái tử này sẽ chứng
Tối thượng quả Bồ-đề,
Sẽ chuyển bánh xe pháp,
Thấy thanh tịnh tối thắng,
V́ ḷng tử thương xót,
V́ hạnh phúc nhiều người,
Và đời sống Phạm hạnh,
Được truyền bá rộng răi. |
697. Mamañca āyu na ciramidhāvaseso
athantarā me bhavissati kālakiriyā,
sohaṃ na sossaṃ asamadhurassa dhammaṃ
tenamhi aṭṭo vyasanagato aghāvī.
|
697.
Và tuổi thọ của tôi c̣n lại ở nơi này không bao lâu, việc qua
đời sẽ xảy đến cho tôi trước khi ấy. Tôi đây sẽ không được nghe
Giáo Pháp của bậc tinh tấn không kẻ sánh bằng; v́ thế tôi phiền
muộn, đưa đến bất hạnh, sầu khổ.” |
694. Thọ mạng ta ở đời
C̣n lại không bao nhiêu,
Đến giữa đời sống Ngài
Ta sẽ bị mệnh chung.
Ta không được nghe pháp,
Bậc tinh cần vô tỷ,
Do vậy ta sầu năo,
Bất hạnh và khổ đau". |
698. So sākiyānaṃ vipulaṃ janetvā pītiṃ
antepuramhā niragamā brahmacārī,
so bhāgineyyaṃ sayamanukampamāno
samādapesi asamadhurassa dhamme. |
698. Bậc hành Phạm hạnh ấy, sau
khi làm sanh khởi sự vui mừng cho những người ḍng Sakya, đă rời
khỏi nội cung. Trong lúc thương tưởng đến người cháu trai (con
chị) của ḿnh, vị ấy đă khuyên nó tiếp thu Giáo Pháp của bậc
tinh tấn không kẻ sánh bằng: |
695. Sau khi khiến họ Thích,
Sanh hoan hỷ rộng lớn,
Bậc sống theo Phạm hạnh,
Bước ra khỏi nội thành.
Vị ấy v́ ḷng từ,
Thương con trai của chị,
Khích lệ nó học pháp,
Bậc tinh cần vô tỷ. |
699. Buddhoti ghosaṃ yadaparato suṇāsi
sambodhipatto vivarati dhammamaggaṃ,
gantvāna tattha samayaṃ paripucchiyāno
carassu tasmiṃ bhagavati brahmacariyaṃ. |
699. “Khi
nào con nghe được từ người khác âm thanh ‘Đức Phật,’ và bậc đă
đạt được phẩm vị Toàn Giác khai mở Giáo Pháp tối cao, con hăy đi
đến nơi ấy. Trong lúc t́m hiểu về đạo lư, con hăy thực hành Phạm
hạnh ở nơi đức Thế Tôn ấy.”
|
696. Khi Ông nghe tiếng Phật,
Từ người khác nói lên,
Bậc đă đạt Bồ-đề,
Đă đi con đường pháp,
Hăy đi đến chỗ ấy,
Hỏi kỹ về đạo pháp,
Và sống đời Phạm hạnh,
Dưới bậc Thế Tôn ấy. |
700. Tenānusiṭṭho hitamanasena tādinā
anāgate paramavisuddha dassinā,
so nālako upacitapuññasañcayo
jinaṃ patikkhaṃ parivasi rakkhitindriyo. |
700. Được chỉ dạy bởi vị ấy, bởi
con người có tâm ư về sự lợi ích như thế ấy, bởi vị có sự nh́n
thấy pháp thanh tịnh tối thượng trong ngày vị lai, Nālaka ấy, có
sự tích lũy phước báu đă được hội tụ, trong lúc chờ đợi đấng
Chiến Thắng, đă sống (với tư cách đạo sĩ khổ hạnh), có giác quan
đă được ǵn giữ. |
697. Như vậy, được khuyên bảo,
Bởi vị nghĩ hạnh phúc,
Vị thấy ở tương lai,
Đường tối thắng thanh tịnh.
Do vậy Nà-la-ka,
Với phước đức chất chứa,
Sống với căn hộ tŕ,
Chờ đợi bậc chiến thắng. |
701. Sutvāna ghosaṃ
jinavaracakkavattane
gantvāna disvā isinisabhaṃ pasanno,
moneyyaseṭṭhaṃ munipavaraṃ apucchi
samāgate asitavhayassa sāsaneti.
|
701. Sau khi
nghe được âm thanh về sự chuyển vận bánh xe cao quư của đấng
Chiến Thắng, Nālaka đă đi đến, đă nh́n thấy vị chúa của các bậc
ẩn sĩ. Được tịnh tín, Nālaka đă hỏi bậc Hiền Trí quư cao về trí
tuệ tối thượng vào lúc lời giáo huấn của vị (ẩn sĩ) tên Asita đă
được viên măn.
|
698. Khi nghe tin Pháp luân,
Được bậc chiến thắng chuyển,
Đến thấy được hoan hỷ,
Bậc ẩn sĩ Ngưu vương,
Hỏi Mâu ni tối thắng,
Pháp Mâu ni tối thượng,
Như A-tư-đà khuyên
Trong buổi gặp gỡ trước. |
Vatthugāthā.
|
(Dứt) Các Kệ Ngôn
Giới Thiệu. |
(Kệ mở đầu đă xong)
|
702. Aññātametaṃ vacanaṃ asitassa
yathātathaṃ,
taṃ taṃ gotama pucchāma sabbadhammāna pāraguṃ. |
702. Lời nói ấy của vị Asita đă
được nhận biết là đúng như thật. Thưa ngài Gotama, v́ thế chúng
tôi hỏi ngài, bậc đă đi đến bờ kia của tất cả các pháp. |
699. Lời A-tư-đà này,
Con biết là như thật,
Con hỏi Gotama,
Đường giải thoát mọi pháp. |
703. Anagāriyupetassa
bhikkhacariyaṃ jigiṃsato,
muni pabrūhi me puṭṭho moneyyaṃ uttamaṃ padaṃ. |
703. Tôi là người đă đi đến cuộc
sống không nhà, đang tầm cầu việc hành pháp khất thực. Thưa bậc
Hiền Trí, được tôi hỏi, xin ngài hăy nói về đường lối thực hành
tối thượng của hiền trí hạnh. |
700. Không nhà, con đi đến
T́m hạnh người khất sĩ,
Con hỏi bậc ẩn sĩ
Hăy nói lên cho con,
Con đường đạo tối thượng,
Đưa đến đạo Mâu-ni, |
704. Moneyyaṃ te apaññissaṃ (iti
bhagavā)
dukkaraṃ durabhisambhavaṃ,
handa te naṃ pavakkhāmi santhambhassu daḷho bhava. |
704. (Đức Thế Tôn nói) “Ta sẽ
giúp cho ngươi hiểu về hiền trí hạnh, là điều khó làm, ;à điều
khó thành tựu. Vậy Ta sẽ tuyên thuyết về điều ấy cho ngươi.
Ngươi hăy cứng cỏi. Ngươi hăy kiên định. |
701. Thế Tôn đáp như sau:
Khó hành, khó thực hiện,
Là đạo hạnh Mâu ni,
Ta sẽ cho Ông biết,
Hăy đến lắng tai nghe,
Ta sẽ nói cho Ông,
Hăy vững trí, an thần,
Hăy kiên tŕ bền chí. |
705. Samānabhāgaṃ kubbetha gāme
akkuṭṭhavanditaṃ,
manopadosaṃ rakkheyya santo anunnato care.
|
705. Nên thực hành sự b́nh thản
khi có sự bị mắng nhiếc hoặc được lễ bái ở trong làng, nên canh
pḥng sự sai trái ở tâm, nên sống an tịnh, không cao ngạo.
|
702. Hăy tu hạnh Sa-môn,
Không để bị dao động,
Giữa khen chê trong làng,
Hăy chế ngự tâm sân,
Sống hạnh thật an tịnh,
Không cống cao kiêu mạn. |
706. Uccāvacā niccharanti dāye
aggisikhūpamā,
nāriyo muniṃ palobhenti tā su taṃ mā palobhayuṃ. |
706. Các hiện tượng tốt xấu
(nhiều loại) bộc phát, tương tự như ngọn lửa ở khu rừng. Các phụ
nữ quyến rủ bậc hiền trí, mong sao các cô ấy chớ quyến rũ ngươi.
|
703. Tiếng cao thấp phát ra,
Như ngọn lửa trong vườn,
Nữ nhân hay cám dỗ,
Chớ cám dỗ ẩn sĩ. |
707. Virato methunā dhammā hitvā
kāme parovare.
aviruddho asāratto pāṇesu tasathāvare.
|
707. Sau khi từ bỏ các dục nhiềm
loại, đă được xa ĺa pháp đôi lứa, không chống đối, không bị đắm
say ở các sinh vật di động hay đứng yên.
|
704. Hăy từ bỏ dâm dục,
Xả mọi dục cao thấp.
Đối hữu t́nh yếu mạnh,
Không đối nghịch, tham đắm. |
708. Yathā ahaṃ tathā ete yathā
ete tathā ahaṃ,
attānaṃ upamaṃ katvā na haneyya na ghātaye. |
708. ‘Ta như thế nào, chúng như
thế ấy; chúng như thế nào, ta như thế ấy,’ sau khi lấy bản thân
làm ví dụ, không nên giết hại, không nên bảo (kẻ khác) giết hại.
|
705. Ta thế nào, họ vậy,
Họ thế nào, Ta vậy,
Lấy ngă làm ví dụ,
Chớ giết, chớ bảo giết. |
709. Hitvā icchañca lobhañca
yattha satto puthujjano,
cakkhumā paṭipajjeyya tareyya narakaṃ imaṃ.
|
709. Sau khi từ bỏ ước muốn và
tham lam mà phàm phu bị dính mắc, bậc hữu nhăn nên thực hành
(hiền trí hạnh), nên vượt qua địa ngục này. |
706. Hăy bỏ dục, bỏ tham,
Đây phàm phu bị nắm,
Bậc có mắt hành đạo,
Vượt địa ngục, loài Người. |
710. Ūnūdaro mitāhāro appicchassa
alolupo,
sa ve icchāya nicchāto aniccho hoti nibbuto. |
710. Nên có bao tử vơi, nên có
vật thực giới hạn, nên ít ham muốn, không tham lam. Vị ấy quả
thật không có sự khao khát do ước muốn, là vị không cón ước
muốn, được tịch tịnh. |
707. Bụng đói, ăn chừng mực,
Ít dục, không tham lam.
Vị ấy không ham dục,
Không dục, thật tịch tịnh. |
711. Sapiṇḍacāraṃ caritvā
vanantamabhihāraye,
upaṭṭhito rukkhamūlasmiṃ āsanūpagato muni. |
711. Sau khi hành hạnh khất thực,
bậc hiền trí nên đi đến ven rừng, đứng cạnh gốc cây, rồi tiến
đến chỗ ngồi. |
708. Sau khi đi khất thực,
Ẩn sĩ vào rừng sâu,
Đi đến dưới gốc cây,
Sửa soạn ngồi an tịnh. |
712. Sa jhānapasuto dhīro vanante
ramito siyā,
jhāyetha rukkhamūlasmiṃ attānamabhitosayaṃ. |
712. Đeo đuổi việc tham thiền,
bậc sáng trí ấy nên vui thích nơi ven rừng; trong lúc làm hài
ḷng bản thân, nên tham thiền ở gốc cây. |
709. Bậc Hiền trí hành thiền,
Hoan hỷ trong rừng sâu,
Hành thiền dưới gốc cây,
Thỏa măn sở thích ḿnh. |
713. Tato ratyā vivasane
gāmantamabhihāraye,
avhānaṃ nābhinandeyya abhihārañca gāmato. |
713. Kế đó, khi tàn đêm, nên đi
vào trong làng, không nên thích thú lời mời mọc và tặng phẩm từ
ngôi làng. |
710. Khi đêm hết, sáng đến,
Cần phải đi đến làng,
Chớ hân hoan khất thực,
Đồ mang từ làng đi. |
714. Na munī gāmamāgamma kulesu
sahasā care,
ghāsesanaṃ chinnakatho na vācaṃ payutaṃ bhaṇe. |
714. Sau khi đi đến làng, bậc
hiền trí không nên đi lại vội vàng ở các gia đ́nh, việc chuyện
văn được cắt đứt, không nên nói lời nói gợi ư tầm cầu về vật
thực. |
711. Ẩn sĩ không đi gấp,
Đến làng, giữa gia đ́nh,
T́m ăn, cắt nói chuyện,
Không nói chuyện liên hệ. |
715. Alatthaṃ yadidaṃ sādhu
nālatthaṃ kusalaṃ iti,
ubhayeneva so tādi rukkhaṃ va upanivattati.
|
715. ‘Ta đă nhận được, việc này
là tốt đẹp. Ta đă không nhận được, lành thay!” (nghĩ thế) với cả
hai trường hợp, vị ấy đều tự tại, tựa như người đến gần cội cây
rồi bỏ đi (dầu có hái được trái cây hay không cũng b́nh thản).
|
712. Nếu được, thật là tốt,
Không được, cũng là tốt,
Nghĩ vậy, cả hai mặt,
Vị ấy trở về cây. |
716. Sa pattapāṇī vicaranto amūgo
mūgasammato,
appaṃ dānaṃ na hīḷeyya dātāraṃ nāvajāniya.
|
716. Vị ấy
với b́nh bát ở bàn tay, trong khi đi đó đây, không là người câm,
được xem như người câm, không nên khinh chê vật thí ít ỏi, không
nên xem thường thí chủ.
|
713. Đi với bát cầm tay,
Không câm, dáng như câm,
Chớ khinh, đồ cho ít,
Không chê người đem cho. |
717. Uccāvacā hi paṭipadā
samaṇena pakāsitā,
na pāraṃ diguṇaṃ yanti na idaṃ ekaguṇaṃ mutaṃ.
|
717. Bởi v́ đường lối thực hành
cao và thấp đă được vị Sa-môn giảng giải. Họ không đi đến bờ kia
hai lần; điều này được cảm giác không chỉ một lần. |
714. Bậc Sa-môn thuyết giảng,
Con đường cao và thấp,
Nhưng đến bờ bên kia,
Không có hai con đường,
Tuy vậy chớ nghĩ rằng,
Đường này chỉ là một. |
718. Yassa ca visatā natthi
chinnasotassa bhikkhuno,
kiccākiccappahīnassa parilāho na vijjati. |
718. Đối với vị tỳ khưu nào không
có tham ái, đă cắt đứt ḍng chảy, đă dứt bỏ việc cần làm và
không cần làm, sự bực bội (của vị ấy) không hiện hữu. |
715. Với ai, không có tham,
Tỷ-kheo cắt ḍng nước,
Đoạn tận hành thiện ác,
Vị ấy không sầu năo. |
719. Moneyyaṃ te upaññissaṃ (iti
bhagavā)
khuradhārūpamo bhave,
jivhāya tāluṃ āhacca udare saññato siyā. |
719. (Đức Thế Tôn nói) Ta sẽ giúp
cho ngươi hiểu về hiền trí hạnh. Nên giống như là lưỡi dao cạo.
Nên áp chặt cái lưỡi vào nóc họng, nên tự chế ngự ở bao tử.
|
716. Thế Tôn lại nói thêm:
Ta dạy cho các Ông
Thức tri hạnh ẩn sĩ,
Hăy tu như lưỡi dao,
Với lưỡi ấn nóc họng,
Hăy hạn chế bao tử. |
720. Alīnacitto ca siyā na cāpi
bahu cintaye,
nirāmagandho asito brahmacariyaparāyano.
|
720. Và nên có tâm không bị tŕ
trệ, và cũng không nên suy nghĩ nhiều, không c̣n mùi hôi thối
(phiền năo), không lệ thuộc, có Phạm hạnh là mục đích. |
717. Tâm chớ có thụ động,
Nhưng chớ nghĩ quá nhiều.
Không hôi hám, độc lập,
Sống cứu cánh Phạm hạnh |
721. Ekāsanassa sikkhetha
samaṇūpāsanassa ca,
ekattaṃ monamakkhātaṃ eko ve abhiramissati.
|
721. Nên học tập về hạnh độc cư
và về sự rèn luyện của bậc Sa-môn. Trạng thái đơn độc được gọi
là hiền trí. Hiển nhiên, một ḿnh sẽ thỏa thích. |
718. Hăy tập ngồi một ḿnh,
Sống đúng hạnh Sa-môn.
Sống một ḿnh được gọi
Là hạnh bậc ẩn sĩ,
Nếu tự ḿnh t́m được
Thoải mái trong cô độc. |
722. Atha bhāsihi dasadisā.
Sutvā dhīrānaṃ nigghosaṃ jhāyīnaṃ kāmacāgīnaṃ,
tato hiriñca saddhañca bhiyyo kubbetha māmako. |
722. Rồi ngươi sẽ chiếu sáng mười
phương.
Sau khi nghe được danh tiếng của
các bậc sáng trí, có thiền, có sự xả bỏ các dục, từ đó đệ tử của
Ta nên làm tăng trưởng sự hổ thẹn tội lỗi và niềm tin.
|
719. Hăy chói sáng mười phương,
Sau khi nghe tiếng nói,
Của các bậc hiền sĩ,
Hăy hành thiền, bỏ dục,
Mong đệ tử của Ta,
Tăng trưởng tâm và tín. |
723. Taṃ nadīhi vijānātha
sobbhesu padaresu ca,
saṇantā yanti kussobbhā tuṇhī yāti mahodadhi. |
723. Nên nhận biết điều ấy từ các
con sông ở các hố nước và các khe nước, các ḍng nước nhỏ di
chuyển gây tiếng động, đại dương im lặng di chuyển. |
720. Hăy học các ḍng nước,
Từ khe núi vực sâu.
Nước khe núi chảy ồn,
Biển lớn động im lặng. |
724. Yadūnakaṃ taṃ saṇati yaṃ
pūraṃ santameva taṃ,
aḍḍhakumbhūpamo bālo rahado pūrova paṇḍito. |
724. Cái ǵ thiếu kém cái ấy làm
thành tiếng vang, cái ǵ đầy ắp cái ấy thật yên tịnh. Kẻ ngu
tương tự cái chum đầy một nửa, bậc sáng suốt tựa như hồ nước đầy
tràn. |
721. Cái ǵ trống kêu to,
Cái ǵ đầy yên lặng,
Ngu như ghè vơi nước,
Bậc trí như ao đầy. |
725. Yaṃ samaṇo bahu bhāsati
upetaṃ atthasaṃhitaṃ,
jānaṃ so dhammaṃ deseti jānaṃ so bahu bhāsati. |
725. Điều mà Sa-môn nói nhiều là
điều được liên quan, chứa đựng sự lợi ích. Có chủ tâm vị ấy
thuyết giảng Giáo Pháp, có chủ tâm vị ấy nói nhiều. |
722. Khi Sa-môn nói nhiều,
Nói liên hệ đến đích,
Tự biết nên thuyết pháp,
Tự biết nên nói nhiều. |
726. Yo ca jānaṃ samaṃ yutto
jānaṃ na bahu bhāsati,
sa muni monamarahati sa muni monamajjhagāti.
|
726. Và vị
nào có chủ tâm gắn bó sự an tịnh, có chủ tâm không nói nhiều, vị
hiền trí ấy xứng đáng bản thể hiền trí, vị hiền trí ấy đă chứng
đạt bản thể hiền trí."
|
723. Ai biết, biết tự chế,
Ai biết, không nói nhiều,
Vị ấy là ẩn sĩ,
Xứng đáng hạnh ẩn sĩ,
Vị ấy là ẩn sĩ,
Đạt được hạnh ẩn sĩ. |
Nālakasuttaṃ niṭṭhitaṃ.
|
Dứt Kinh Nālaka.
|
|
|
|
|
12. DVAYATĀNUPASSANĀSUTTAṂ
|
12. KINH
QUÁN XÉT HAI KHÍA CẠNH
|
12.
KINH HAI PHÁP TÚY QUÁN
|
Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ
bhagavā sāvatthiyaṃ viharati pubbārāme migāramātu pāsāde. Tena
kho pana samayena bhagavā tadahuposathe pannarase puṇṇāya
puṇṇamāya rattiyā bhikkhusaṅgha-parivuto abbhokāse nisinno hoti.
Atha kho bhagavā tuṇhībhūtaṃ tuṇhībhūtaṃ bhikkhusaṅghaṃ
anuviloketvā bhikkhū āmantesi: |
Tôi đă nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn
ngự tại thành Sāvatthi, tu viện Pubba, ở ṭa nhà dài của Mẹ của
Migāra
Vào lúc bấy giờ, nhằm ngày
Uposatha,
vào ngày mười lăm, trong đêm trăng tṛn vằng vặc, đức Thế Tôn
ngồi ở ngoài trời, được vây quanh bởi hội chúng tỳ khưu. Khi ấy,
sau khi xem xét thấy hội chúng tỳ khưu có trạng thái im lặng
hoàn toàn, đức Thế Tôn đă bảo các vị tỳ khưu rằng:
|
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú tại Sàvatthi, ở
Đông Viên, tại lâu đài mẹ của Migàra. Lúc bấy giờ, trong ngày
trai giới Uposatha, vào ngày rằm, trăng tṛn, trong đêm rằm, Thế
Tôn ngồi giữa trời với chúng Tỷ-kheo đoanh vây. Rồi Thế Tôn nh́n
xung quanh chúng Tỷ-kheo đang yên lặng, nói với các Tỷ-kheo: |
Ye te bhikkhave, kusalā dhammā
ariyā niyyānikā sambodhagāmino, tesaṃ vo bhikkhave, kusalānaṃ
dhammānaṃ ariyānaṃ niyyānikānaṃ sambodhagāminaṃ kā upanisā
savaṇāyāti. Iti ce bhikkhave, pucchitāro assu te evamassu
vacanīyā: Yāvadeva dvayatānaṃ dhammānaṃ yathābhūtaṃ ñāṇāyāti.
|
“Này các tỳ khưu, các pháp thiện
nào là cao thượng, dẫn dắt ra khỏi, đưa đến giác ngộ, này các tỳ
khưu, lư do ǵ khiến các ngươi lắng nghe các pháp thiện, cao
thượng, dẫn dắt ra khỏi, đưa đến giác ngộ ấy? Này các tỳ khưu,
nếu có những người hỏi như thế, những người ấy nên được nói như
vầy: ‘Chỉ để đưa đến sự nhận biết đúng theo bản thể đối với các
pháp có hai khía cạnh.’ |
- Này các Tỷ-kheo, phàm có những
thiện pháp nào thuộc bậc Thánh có khả năng hướng thượng, đưa đến
giác ngộ; này các Tỷ-kheo, đối với các thiện pháp thuộc bậc
Thánh có khả năng hướng thượng đưa đến giác ngộ ấy do lư do ǵ
các Thầy nghe những pháp ấy? Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thể
được hỏi như vậy, các Thầy có thể trả lời cho những người câu
hỏi ấy như sau: "V́ muốn có như thật trí đối với hai pháp".
|
Kiñca dvayataṃ vadetha:
|
‘Và các vị nói cái ǵ là hai khía
cạnh?’ |
Và nếu các Thầy nói: "Thế nào là
hai?". |
Idaṃ dukkhaṃ ayaṃ dukkhasamudayo
’ti ayamekānupassanā. Ayaṃ dukkhanirodho ayaṃ
dukkhanirodhagāminīpaṭipadā ’ti ayaṃ dutiyānupassanā.
|
‘Đây là Khổ, đây là Nguyên Nhân
của Khổ,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Đây là sự Diệt Khổ, đây
là sự Thực Hành theo Con Đường đưa đến sự Diệt Khổ,’ đây là sự
quán xét thứ nh́. |
- "Đây là khổ, đây là khổ tập",
đây là tuỳ quán thứ nhất. "Đây là khổ diệt, đây là con đường đưa
đến khổ diệt", đây là tùy quán thứ hai. |
Evaṃ sammā dvayatānupassino kho
bhikkhave, bhikkhuno appamattassa ātāpino pahitattassa viharato
dvinnaṃ phalānaṃ aññataraṃ phalaṃ pāṭikaṅkhaṃ diṭṭheva dhamme
aññā, sati vā upādisese anāgāmitāti.
|
Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ
khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh một cách đúng đắn như
vậy, không bị xao lăng, có nhiệt tâm, có bản tánh cương quyết,
một quả báu nào đó trong hai quả báu là điều chờ đợi: trí giải
thoát ở đời hiện tại, hoặc nếu c̣n dư sót th́ phẩm vị Bất Lai.”
|
Này các Tỷ-kheo, như vậy do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai
pháp, không có phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, được chờ đợi là
một trong hai quả sau đây: Được chánh trí ngay trong hiện tại,
và nếu có dư y, chứng quả Bất hoàn. |
Idamavoca bhagavā. Idaṃ vatvā
sugato athāparaṃ etadavoca satthā:
|
Đức Thế Tôn đă nói điều này. Sau
khi nói điều này, đấng Thiện Thệ, bậc Đạo Sư c̣n nói thêm điều
này nữa:
|
Thế Tôn nói như vậy, Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Đạo Sư lại
nói thêm: |
727. Ye dukkhaṃ nappajānanti atho
dukkhassa sambhavaṃ,
yattha ca sabbaso dukkhaṃ asesaṃ uparujjhati,
tañca maggaṃ na jānanti dukkhūpasamagāminaṃ.
|
727. “Những
người nào không nhận biết khổ, rồi nguồn sanh khởi của khổ, và
nơi nào khổ được tiêu hoại toàn bộ không dư sót, và không biết
về đạo lộ ấy, (đạo lộ) đưa đến sự yên lặng của khổ.
|
724. Ai không tuệ tri khổ,
Và hiện hữu của khổ,
Và chỗ khổ hoàn toàn
Được đoạn tận không dư,
Vị ấy không biết đường,
Đưa đến khổ an tịnh. |
728. Cetovimuttihīnā te atho
paññāvimuttiyā,
abhabbā te antakiriyāya te ve jātijarūpagā.
|
728.
Những người ấy là thấp kém về sự giải thoát của tâm, rồi sự giải
thoát của tuệ, những người ấy không thể thực hiện việc chấm dứt,
quả thật họ đi đến sanh và già. |
725. Không có tâm giải thoát,
Không có tuệ giải thoát,
Vị ấy không có thể
Đoạn tận sanh và già. |
729. Ye ca dukkhaṃ pajānanti atho
dukkhassa sambhavaṃ,
yattha ca sabbaso dukkhaṃ asesaṃ uparujjhati,
tañca maggaṃ pajānanti dukkhūpasamagāminaṃ.
|
729.
Và những người nào nhận biết khổ, rồi nguồn sanh khởi của khổ,
và nơi nào khổ được tiêu hoại toàn bộ không dư sót, và nhận biết
đạo lộ ấy, (đạo lộ) đưa đến sự yên lặng của khổ. |
726. Những ai tuệ tri khổ
Và hiện hữu của khổ
Và chỗ khổ hoàn toàn
Được đoạn tận không dư,
Vị ấy biết con đường,
Đưa đến khổ an tịnh. |
730. Cetovimuttisampannā atho
paññāvimuttiyā,
bhabbā te antakiriyāya na te jātijarūpagāti. |
730.
Những người ấy thành tựu sự giải thoát của tâm, rồi sự giải
thoát của tuệ, những người ấy có thể thực hiện việc chấm dứt,
quả thật họ không đi đến sanh và già.” |
727. Đầy đủ tâm giải thoát,
Với trí tuệ giải thoát,
Những vị ấy có thể
Với trí tuệ giải thoát,
Đoạn tận sanh và già. |
Siyā aññenapi pariyāyena sammā
dvayatānupassanāti, iti ce bhikkhave, pucchitāro assu siyātissu
vacanīyā, kathañca siyā? Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ
upadhipaccayāti, ayamekānupassanā. Upādhīnaṃ tveva
asesavirāganirodhā natthi dukkhassa sambhavoti, ayaṃ
dutiyānupassanā. |
‘Có thể có sự quán xét hai khía
cạnh một cách đúng đắn bằng một phương thức khác,’ này các tỳ
khưu, nếu có những người hỏi như thế, những người ấy nên được
nói như vầy: ‘Có thể.’ Và có thể như thế nào? ‘Bất cứ khổ nào
được h́nh thành, tất cả do mầm tái
sanh là duyên,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Nhưng chính
do sự hoàn toàn không c̣n ái luyến và sự diệt tận của các mầm
tái sanh, không có sự h́nh thành của khổ,’ đây là sự quán xét
thứ nh́.
|
Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau: "Có
thể có chân chánh tuỳ quán hai pháp, theo một pháp môn khác
không?" Các Thầy cần phải trả lời: "Có thể có". Có thể có như
thế nào? "Phàm có khổ ǵ hiện hữu, tất cả đều do duyên sanh y",
đây là tuỳ quán pháp thứ nhất. "Do sự đoạn diệt, ly tham, các
sanh y không có dư tàn, khổ không có hiện hữu", đây là tùy quán
thứ hai. |
Evaṃ sammā —pe— athāparaṃ
etadavoca satthā: |
(Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ
khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như
vậy —như trên— bậc Đạo Sư c̣n nói thêm điều này nữa: |
- Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tuỳ quán hai pháp,
không có phóng dật, nhiệt tâm tinh cần, được chờ đợi là một
trong hai quả sau đây: Được chánh trí ngay trong hiện tại, và
nếu có dư y, chứng quả Bất hoàn.
Thế Tôn nói như vậy, Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Đạo Sư lại
nói thêm: |
731. Upadhinidānā pabhavanti
dukkhā
ye keci lokasmiṃ anekarūpā,
yo ve avidvā upadhiṃ karoti,
punappunaṃ dukkhamupeti mando,
tasmā pajānaṃ upadhiṃ na kayirā
dukkhassa jātippabhavānupassīti.
|
731. “Bất
cứ các khổ nào, với nhiều h́nh thức, phát khởi ở thế gian đều có
mầm tái sanh là căn nguyên. Thật vậy, kẻ ngu nào, không biết,
tạo ra mầm tái sanh, (sẽ) đi đến khổ lần này lần khác. V́ thế,
người có sự quán xét về sự sanh ra và phát khởi của khổ, trong
khi nhận biết, không nên tạo ra mầm tái sanh.” |
728. Chính do duyên sanh y,
Các khổ được sanh khởi,
Tất cả các khổ đau,
Sai biệt ở trên đời,
Ai chính do vô minh
Tạo lên sự sanh y,
Kẻ ngu ấy gặp khổ
Nối tiếp nhau sanh trưởng,
Do vậy vị hiểu biết,
Không tạo lên sanh y,
Tuỳ quán được hiện hữu
Của sanh và của khổ. |
Siyā aññenapi pariyāyena sammā
dvayatānupassanāti iti ce bhikkhave, pucchitāro assu siyātissu
vacanīyā, kathañca siyā? Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ
avijjāpaccayāti, ayamekānupassanā. Avijjāya tveva
asesavirāganirodhā natthi dukkhassa sambhavoti, ayaṃ
dutiyānupassanā. |
‘Có thể có sự
quán xét hai khía cạnh một cách đúng đắn bằng một phương thức
khác,’ này các tỳ khưu, nếu có những người hỏi như thế, những
người ấy nên được nói như vầy: ‘Có thể.’ Và có thể như thế nào?
‘Bất cứ khổ nào được h́nh thành, tất cả do
vô minh là duyên,’ đây là sự
quán xét thứ nhất. ‘Nhưng chính do sự hoàn toàn không c̣n ái
luyến và sự diệt tận của vô minh, không có sự h́nh thành của
khổ,’ đây là sự quán xét thứ nh́.
|
Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau: "Có
thể có chân chánh tùy quán hai pháp theo một pháp môn khác
không?" Các Thầy cần phải trả lời: "Có thể có". Có thể có như
thế nào? "Phàm có khổ ǵ hiện hữu, tất cả đều do duyên vô minh",
đây là tùy quán thứ nhất. "Do đoạn diệt, ly tham, vô minh không
có dư tàn, khổ không có hiện hữu", đây là tùy quán pháp thứ hai. |
Evaṃ sammā —pe— athāparaṃ
etadavoca satthā: |
(Này các tỳ
khưu, đối với vị tỳ khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một
cách đúng đắn như vậy —như trên— bậc Đạo Sư c̣n nói thêm điều
này nữa: |
Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp, không
có phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, được chờ đợi là một trong hai
quả sau đây: Được chánh trí ngay trong hiện tại, và nếu có dư y,
chứng quả Bất hoàn. Thế Tôn nói như vậy, Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Đạo sư
lại nói thêm: |
732. Jātimaraṇasaṃsāraṃ ye
vajanti punappunaṃ,
itthabhāvaññathābhāvaṃ avijjāyeva sā gati. |
732. “Những
người nào đi đến sanh, tử, luân hồi lần này lần khác, đến sự
hiện hữu này và sự hiện hữu khác, tiến tŕnh ấy là do chính vô
minh. |
729. Những ai tiếp tục rơi,
Ḍng luân chuyển sanh tử,
Đến hữu này hữu khác,
Sanh thú do vô minh. |
733. Avijjā hayaṃ mahāmoho
yenidaṃ saṃsitaṃ ciraṃ,
vijjāgatā ca ye sattā nāgacchanti punabbhavanti.
|
733.
Bởi v́ vô minh này là sự mê muội lớn lao, do nó việc bị luân hồi
này là lâu dài. Và những chúng sanh nào đạt được minh, họ không
đi đến sự hiện hữu lại nữa.” |
730. Vô minh này, đại si,
Đưa đến luân chuyển dài,
Chúng sanh, minh đạt được,
Không c̣n phải tái sanh. |
Siyā aññenapi —pe— kathañca siyā?
Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ saṅkhārapaccayāti,
ayamekānupassanā. Saṅkhārānaṃ tveva asesavirāganirodhā natthi
dukkhassa sambhavoti, ayaṃ dutiyānupassanā. |
‘Có thể có —như trên— bằng một
phương thức khác,’ —như trên— Và có thể như thế nào? ‘Bất cứ khổ
nào được h́nh thành, tất cả do các
hành là duyên,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Nhưng chính
do sự hoàn toàn không c̣n ái luyến và sự diệt tận của các hành,
không có sự h́nh thành của khổ,’ đây là sự quán xét thứ nh́.
|
Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:...
"Phàm có khổ ǵ hiện hữu, tất cả đều do duyên các hành", đây là
tuỳ quán pháp thứ nhất. "Do đoạn diệt, ly tham, các hành không
có dư tàn, khổ không có hiện hữu", đây là tùy quán pháp thứ hai.
|
Evaṃ sammā —pe— athāparaṃ
etadavoca satthā: |
(Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ
khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như
vậy —như trên— bậc Đạo Sư c̣n nói thêm điều này nữa:
|
Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn
chánh tùy quán hai pháp. Bậc
Đạo sư lại nói thêm: |
734. Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti
sabbaṃ saṅkhārapaccayā,
saṅkharānaṃ nirodhena natthi dukkhassa sambhavoti. |
734. “Bất
cứ khổ nào được h́nh thành, tất cả do các hành là duyên. Do sự
diệt tận của các hành, không có sự h́nh thành của khổ.
|
731. Phàm khổ ǵ hiện hữu,
Tất cả duyên các hành,
Do đoạn diệt các hành,
Khổ không có hiện hữu. |
735. Etamādīnavaṃ ñatvā dukkhaṃ
saṅkhārapaccayā,
sabbasaṅkhārasamathā saññāya uparodhanā,
evaṃ dukkhakkhayo hoti etaṃ ñatvā yathātathaṃ. |
735.
Sau khi biết được điều ấy là bất lợi, (biết được) khổ do các
hành là duyên. Do sự yên lặng của tất cả các hành, do sự ngưng
lại của tưởng, như vậy có sự cạn kiệt của khổ, sau khi biết điều
này đúng theo thực thể ... |
732. Do biết nguy hiểm này,
Khổ do duyên các hành,
Tịnh chỉ tất cả hành,
Do phá hoại các tưởng,
Như vậy, khổ được diệt,
Biết như thực là vậy. |
736. Sammaddasā vedaguno
sammadaññāya paṇḍitā,
abhibhuyya mārasaṃyogaṃ nāgacchanti punabbhavanti. |
736. ...
các bậc đạt được sự thông hiểu đă
nh́n thấy đúng đắn; với sự nhận biết đúng đắn, các bậc sáng
suốt, sau khi chế ngự sự ràng buộc của Ma Vương, không đi đến sự
hiện hữu lại nữa.” |
733. Bậc Hiền trí chánh kiến,
Hiểu biết, với chánh trí,
Nhiếp phục Ma kiết sử,
Không đi đến tái sanh. |
Siyā aññenapi —pe— kathañca siyā?
Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ viññāṇapaccayāti,
ayamekānupassanā. Viññāṇassa tveva asesavirāganirodhā natthi
dukkhassa sambhavoti, ayaṃ dutiyānupassanā.
|
‘Có thể có —như trên— bằng một
phương thức khác,’ —như trên— Và có thể như thế nào? ‘Bất cứ khổ
nào được h́nh thành, tất cả do thức
là duyên,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Nhưng chính do sự hoàn
toàn không c̣n ái luyến và sự diệt tận của thức, không có sự
h́nh thành của khổ,’ đây là sự quán xét thứ nh́.
|
Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:...
"Phàm có khổ ǵ hiện hữu, tất cả đều do duyên thức", đây là tùy
quán pháp thứ nhất. "Do đoạn diệt, ly tham thức không có dư tàn,
khổ không có hiện hữu", đây là tùy quán pháp thứ hai. |
Evaṃ sammā —pe— athāparaṃ
etadavoca satthā: |
(Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ
khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như
vậy —như trên— bậc Đạo Sư c̣n nói thêm điều này nữa:
|
Này các
Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp, bậc Đạo sư lại
nói thêm: |
737. Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti
sabbaṃ viññāṇapaccayā,
viññāṇassa nirodhena natthi dukkhassa sambhavo.
|
737. “Bất
cứ khổ nào được h́nh thành, tất cả do thức là duyên. Do sự diệt
tận của thức, không có sự h́nh thành của khổ.
|
734. Phàm khổ ǵ hiện hữu,
Tất cả do duyên thức,
Với thức được đoạn diệt,
Khổ không có hiện hữu. |
738. Etamādīnavaṃ ñatvā dukkhaṃ
viññāṇapaccayā,
viññāṇupasamā bhikkhu nicchāto parinibbuto’ti. |
738.
Sau khi biết được điều ấy là bất lợi, (biết được) khổ do thức là
duyên, do sự yên tịnh của thức, vị tỳ khưu không c̣n sự khao
khát, được hoàn toàn tịch tịnh.” |
735. Do biết nguy hiểm hày,
Khổ do duyên các thức,
Tỷ-kheo tịnh chỉ thức,
Không dục ái, tịch tịnh. |
Siyā aññenapi —pe— kathañca siyā?
Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ phassapaccayāti,
ayamekānupassanā. Phassassa tveva asesavirāganirodhā natthi
dukkhassa sambhavoti, ayaṃ dutiyānupassanā.
|
‘Có thể có —như trên— bằng một
phương thức khác,’ —như trên— Và có thể như thế nào? ‘Bất cứ khổ
nào được h́nh thành, tất cả do xúc
là duyên,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Nhưng chính do sự hoàn
toàn không c̣n ái luyến và sự diệt tận của xúc, không có sự h́nh
thành của khổ,’ đây là sự quán xét thứ nh́.
|
Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:....
"Phàm có khổ ǵ hiện hữu, tất cả đều do duyên xúc", đây là pháp
tùy quán thứ nhất. "Do đoạn diệt, ly tham xúc không có dư tàn,
khổ không có hiện hữu", đây là tùy quán pháp thứ hai. |
Evaṃ sammā —pe— athāparaṃ
etadavoca satthā: |
(Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ
khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như
vậy —như trên— bậc Đạo Sư c̣n nói thêm điều này nữa:
|
Này các
Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp. Bậc Đạo Sư lại
nói thêm: |
739. Tesaṃ phassaparetānaṃ
bhavasotānusārinaṃ,
kummaggapaṭipannānaṃ ārā saṃyojanakkhayo.
|
739. “Đối
với những người bị quấy nhiễu bởi (sáu) xúc, có sự xuôi theo
ḍng chảy của hiện hữu, đang thực hành đường lối xấu xa, sự cạn
kiệt các mối ràng buộc là xa xôi. |
736. Những ai, xúc chi phối,
Chạy theo ḍng sanh hữu,
Những người hành tà đạo,
Xa vời diệt kiết sử. |
740. Ye ca phassaṃ pariññāya
aññāya upasame ratā,
te ce phassābhisamayā nicchātā parinibbutā’ti. |
740.
Và những người nào, sau khi biết toàn diện về xúc, được thích
thú ở sự an tịnh nhờ vào trí hiểu biết, những người ấy, thật
vậy, do sự lănh hội về xúc, không c̣n sự khao khát, được hoàn
toàn tịch tịnh.” |
737. Những ai liễu tri xúc,
Nhờ trí, thích an tịnh,
Do họ thắng tri xúc,
Không dục ái, tịch tịnh. |
Siyā aññenapi —pe— kathañca siyā?
Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ vedanāpaccayāti,
ayamekānupassanā. Vedanānaṃ tveva asesavirāganirodhā natthi
dukkhassa sambhavoti, ayaṃ dutiyānupassanā.
|
‘Có thể có —như trên— bằng một
phương thức khác,’ —như trên— Và có thể như thế nào? ‘Bất cứ khổ
nào được h́nh thành, tất cả do thọ
là duyên,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Nhưng chính do sự hoàn
toàn không c̣n ái luyến và sự diệt tận của thọ, không có sự h́nh
thành của khổ,’ đây là sự quán xét thứ nh́.
|
Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:...
"Phàm có khổ ǵ hiện hữu, tất cả đều do duyên thọ", đây là pháp
tùy quán thứ nhất. "Do đoạn diệt, ly tham thọ không có dư tàn,
khổ không có hiện hữu", đây là tùy quán pháp thứ hai.
|
Evaṃ sammā —pe— athāparaṃ
etadavoca satthā: |
(Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ
khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như
vậy —như trên— bậc Đạo Sư c̣n nói thêm điều này nữa:
|
Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn
chánh tùy quán hai pháp. Bậc Đạo Sư
lại nói thêm: |
741. Sukhaṃ vā yadi vā dukkhaṃ
adukkhamasukhaṃ saha,
ajjhattañca bahiddhā ca yaṃ kiñci atthi veditaṃ.
|
741. “Bất
cứ điều ǵ có sự được cảm thọ, dầu là lạc hay là khổ, (hay là)
với không khổ không lạc, ở nội phần và ở ngoại phần, ... |
738. Với lạc thọ, khổ thọ,
Hay bất khổ, bất lạc;
Nội thọ và ngoại thọ,
Phàm có cảm thọ ǵ. |
742. Etaṃ dukkhanti ñatvāna
mosadhammaṃ palokitaṃ,
phussa phussa vayaṃ passaṃ evaṃ tattha vijānāti,
vedanānaṃ khayā bhikkhu nicchāto parinibbuto’ti.
|
742. ...
Sau khi biết được ‘điều ấy là khổ, có
tính chất giả trá, bị đổ vỡ, trong khi nh́n thấy sự hoại diệt
sau mỗi lượt xúc chạm và nhận thức như vậy tại nơi ấy, do sự cạn
kiệt của các thọ, vị tỳ khưu không c̣n sự khao khát, được hoàn
toàn tịch tịnh.” |
739. Biết được đây là khổ,
Giả dối bị hủy hoại.
Thấy các xúc hoại diệt,
Như vậy, đây ly tham,
Tỷ-kheo diệt các thọ,
Không dục ái, tịch tịnh. |
Siyā aññenapi —pe— kathañca siyā?
Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ taṇhāpaccayāti,
ayamekānupassanā. Taṇhāya tveva asesavirāganirodhā natthi
dukkhassa sambhavoti, ayaṃ dutiyānupassanā. |
‘Có thể có
—như trên— bằng một phương thức khác,’ —như trên— Và có thể như
thế nào? ‘Bất cứ khổ nào được h́nh thành, tất cả do
ái là duyên,’ đây là sự quán
xét thứ nhất. ‘Nhưng chính do sự hoàn toàn không c̣n ái luyến và
sự diệt tận của ái, không có sự h́nh thành của khổ,’ đây là sự
quán xét thứ nh́.
|
Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:...
"Phàm có khổ ǵ hiện hữu, tất cả đều do duyên ái", đây là pháp
tùy quán thứ nhất. "Do đoạn diệt, ly tham ái, không có dư tàn,
khổ không có hiện hữu", đây là tùy quán pháp thứ hai.
|
Evaṃ sammā —pe— athāparaṃ
etadavoca satthā:
|
(Này các tỳ
khưu, đối với vị tỳ khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một
cách đúng đắn như vậy —như trên— bậc Đạo Sư c̣n nói thêm điều
này nữa:
|
Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn
chán tùy quán hai pháp.
Bậc Đạo Sư lại nói thêm: |
743. Taṇhā dutiyo puriso
dīghamaddhāna saṃsaraṃ,
itthābhāvaññathābhāvaṃ saṃsāraṃ nātivattati. |
743. “Có
tham ái là bạn lữ, trong khi luân chuyển một thời gian dài đến
sự hiện hữu này và sự hiện hữu khác, con người không vượt qua
được luân hồi. |
740. Người có ái bạn đường,
Bị luân chuyển dài dài,
Đến hữu này, hữu khác,
Luân chuyển không dừng nghỉ. |
744. Etamādīnavaṃ ñatvā taṇhā
dukkhassa sambhavaṃ,
vītataṇho anādāno sato bhikkhu paribbaje’ti.
|
744.
Sau khi biết được điều ấy là bất lợi, (biết được) tham ái là
nguồn sanh khởi của khổ, vị tỳ khưu có tham ái đă được xa ĺa,
không có nắm giữ, có niệm, nên ra đi du phương.” |
741. Do biết nguy hiểm nầy,
Chính ái tác thành khổ,
Ly ái, không chấp thủ,
Chánh niệm, Tỷ-kheo hành. |
Siyā aññenapi —pe— kathañca siyā?
Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ upādānapaccayāti,
ayamekānupassanā. Upādānānaṃ tveva asesavirāganirodhā natthi
dukkhassa sambhavoti, ayaṃ dutiyānupassanā. |
‘Có thể có —như trên— bằng một
phương thức khác,’ —như trên— Và có thể như thế nào? ‘Bất cứ khổ
nào được h́nh thành, tất cả do thủ là duyên,’ đây là sự quán xét
thứ nhất. ‘Nhưng chính do sự hoàn toàn không c̣n ái luyến và sự
diệt tận của thủ, không có sự h́nh thành của khổ,’ đây là sự
quán xét thứ nh́.
|
Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy
được hỏi thêm nữa như sau:.... "Phàm có khổ ǵ hiện hữu, tất cả
đều do duyên thủ", đây là pháp tùy quán thứ nhất. "Do đoạn diệt,
ly tham thủ không có dư tàn, khổ không có hiện hữu", đây là tùy
quán pháp thứ hai. |
Evaṃ sammā —pe— athāparaṃ
etadavoca satthā:
|
(Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ
khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như
vậy —như trên— bậc Đạo Sư c̣n nói thêm điều này nữa:
|
Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn
chánh tùy quán hai pháp. Bậc Đạo Sư
lại nói thêm: |
745. Upādānapaccayā bhavo bhūto
dukkhaṃ nigacchati,
jātassa maraṇaṃ hoti eso dukkhassa sambhavo. |
745. “Do
thủ là duyên, có hữu. Ngưỡi đă được hiện hữu phải chịu khổ. Có
cái chết dành cho người đă được sanh ra; điều ấy là nguồn sanh
khởi của khổ. |
742. Do duyên thủ, có hữu,
Do hữu, đi đến khổ,
Từ sanh nên có chết,
Đây hiện hữu của khổ. |
746. Tasmā upādānakkhayā
sammadaññāya paṇḍitā,
jātikkhayaṃ abhiññāya nāgacchanti punabbhavanti, |
746.
V́ thế, do sự cạn kiệt của thủ, các bậc sáng suốt, với sự nhận
biết đúng đắn, sau khi biết rơ sự cạn kiệt của sanh, không đi
đến sự hiện hữu lại nữa.” |
743. Do vậy, bậc Hiền trí,
Diệt thủ, nhờ chánh trí,
Nhờ thắng trí sanh diệt,
Không đi đến tái sanh. |
Siyā aññenapi —pe— kathañca siyā?
Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ ārambhapaccayāti,
ayamekānupassanā. Ārambhānaṃ tveva asesavirāganirodhā natthi
dukkhassa sambhavoti, ayaṃ dutiyānupassanā. |
‘Có thể có —như trên— bằng một
phương thức khác,’ —như trên— Và có thể như thế nào? ‘Bất cứ khổ
nào được h́nh thành, tất cả do sự khởi động (gắn liền với
nghiệp) là duyên,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Nhưng chính do
sự hoàn toàn không c̣n ái luyến và sự diệt tận của sự khởi động,
không có sự h́nh thành của khổ,’ đây là sự quán xét thứ nh́.
|
Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy
được hỏi thêm nữa như sau:... "Phàm có khổ ǵ hiện hữu, tất cả
đều do duyên khởi xướng", đây là pháp tùy quán thứ nhất. "Do
đoạn diệt ly tham khởi xướng không có dư tàn, khổ không có hiện
hữu", đây là tùy quán pháp thứ hai. |
Evaṃ sammā —pe— athāparaṃ
etadavoca satthā: |
(Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ
khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như
vậy —như trên— bậc Đạo Sư c̣n nói thêm điều này nữa:
|
Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn
chánh tùy quán hai pháp. Bậc Đạo Sư lại nói thêm: |
747. Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti
sabbaṃ ārambhapaccayā,
ārambhānaṃ nirodhena natthi dukkhassa sambhavo. |
747. “Bất
cứ khổ nào được h́nh thành, tất cả do sự khởi động là duyên. Do
sự diệt tận của sự khởi động, không có sự h́nh thành của khổ. |
744. Phàm khổ ǵ hiện hữu,
Tất cả duyên khởi xướng,
Do đoạn diệt khởi xướng,
Khổ không có hiện hữu. |
748. Etamādīnavaṃ ñatvā dukkhaṃ
ārambhapaccayā,
sabbārambhaṃ paṭinissajja anārambhavimuttino. |
748.
Sau khi biết được điều ấy là bất lợi, (biết được) khổ do sự khởi
động là duyên, sau khi từ bỏ mọi sự khởi động, đối với vị đă
giải thoát khỏi sự khởi động, ... |
745. Do biết nguy hiểm này,
Khổ do duyên khởi xướng,
Từ bỏ mọi khởi xướng,
Không khởi xướng, giải thoát. |
749. Ucchinnabhavataṇhassa
santacittassa bhikkhuno,
vitiṇṇo jātisaṃsāro natthi tassa punabbhavoti.
|
749. ...
đối với vị tỳ khưu có hữu ái đă được
trừ tuyệt, có tâm an tịnh, việc luân hồi tái sanh đă được triệt
tiêu, đối với vị ấy không có sự hiện hữu lại nữa.”
|
746. Do đoạn tận hữu ái,
Tâm Tỷ-kheo tịch tịnh,
Vượt khỏi sanh luân chuyển
Vị ấy không tái sanh. |
Siyā aññenapi —pe— kathañca siyā?
Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ āhārapaccayāti,
ayamekānupassanā. Āhārānaṃ tveva asesavirāganirodhā natthi
dukkhassa sambhavoti, ayaṃ dutiyānupassanā. |
‘Có thể có —như trên— bằng một
phương thức khác,’ —như trên— Và có thể như thế nào? ‘Bất cứ khổ
nào được h́nh thành, tất cả do dưỡng
chất là duyên,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Nhưng chính
do sự hoàn toàn không c̣n ái luyến và sự diệt tận của các dưỡng
chất, không có sự h́nh thành của khổ,’ đây là sự quán xét thứ
nh́.
|
Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy
được hỏi thêm nữa như sau:... "Phàm có khổ ǵ hiện hữu, tất cả
đều do duyên thức ăn", đây là pháp tùy quán quán thứ nhất. "Do
đoạn diệt, ly tham thức ăn không có dư tàn, khổ không có hiện
hữu", đây là tùy quán pháp thứ hai. |
Evaṃ sammā —pe— athāparaṃ
etadavoca satthā: |
(Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ
khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như
vậy —như trên— bậc Đạo Sư c̣n nói thêm điều này nữa:
|
Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn
chánh tùy quán hai pháp. Bậc Đạo Sư lại nói thêm: |
750. Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti
sabbaṃ āhārapaccayā,
āhārānaṃ nirodhena natthi dukkhassa sambhavo. |
750. “Bất
cứ khổ nào được h́nh thành, tất cả do dưỡng chất là duyên. Do sự
diệt tận của các dưỡng chất, không có sự h́nh thành của khổ. |
747. Phàm khổ ǵ hiện hữu,
Tất cả duyên thức ăn,
Do đoạn diệt thức ăn,
Khổ không có hiện hữu. |
751. Etamādīnavaṃ ñatvā dukkhaṃ
āhārapaccayā,
sabbāhāraṃ pariññāya sabbāhāramanissito, |
751.
Sau khi biết được điều ấy là bất lợi, (biết được) khổ do dưỡng
chất là duyên, sau khi biết toàn diện về mọi dưỡng chất th́
không bị lệ thuộc vào mọi dưỡng chất. |
748. Do biết nguy hiểm này,
Khổ do duyên thức ăn,
Liễu tri mọi thức ăn,
Không y mọi thức ăn. |
752. Ārogyaṃ sammadaññāya
āsavānaṃ parikkhayā,
saṅkhāya sevī dhammaṭṭho saṅkhaṃ nopeti vedagūti. |
752.
Với sự nhận biết đúng đắn về vô bệnh (Niết Bàn), do sự hoàn toàn
cạn kiệt của các lậu hoặc, vị có sự hành tŕ, sau khi phán xét,
đứng vững ở Giáo Pháp; các bậc đạt được sự thông hiểu không đi
đến sự phán xét.” |
749. Nhờ chánh trí không bệnh,
Đoạn diệt các lậu hoặc,
Thọ dụng các thức ăn,
Giác sát, trú Chánh pháp,
Vị đạt được trí tuệ,
Không rơi vào ước lượng. |
Siyā aññenapi —pe— kathañca siyā?
Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ iñjitapaccayāti,
ayamekānupassanā. Iñjitānaṃ tveva asesavirāganirodhā natthi
dukkhassa sambhavoti, ayaṃ dutiyānupassanā. |
‘Có thể có —như trên— bằng một
phương thức khác,’ —như trên— Và có thể như thế nào? ‘Bất cứ khổ
nào được h́nh thành, tất cả do sự loạn động là duyên,’ đây là sự
quán xét thứ nhất. ‘Nhưng chính do sự hoàn toàn không c̣n ái
luyến và sự diệt tận của các sự loạn động, không có sự h́nh
thành của khổ,’ đây là sự quán xét thứ nh́.
|
Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy
được hỏi thêm nữa như sau:... "Phàm có khổ ǵ hiện hữu, tất cả
đều do duyên dao động", đây là pháp tùy quán quán thứ nhất. "Do
đoạn diệt, ly tham dao động không có dư tàn, khổ không có hiện
hữu", đây là tùy quán pháp thứ hai. |
Evaṃ sammā —pe— athāparaṃ
etadavoca satthā: |
(Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ
khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như
vậy —như trên— bậc Đạo Sư c̣n nói thêm điều này nữa:
|
Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn
chánh tùy quán hai pháp. Bậc Đạo Sư lại nói thêm: |
753. Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti
sabbaṃ iñjitapaccayā,
iñjitānaṃ nirodhena natthi dukkhassa sambhavo. |
753. “Bất
cứ khổ nào được h́nh thành, tất cả do sự loạn động là duyên. Do
sự diệt tận của các sự loạn động, không có sự h́nh thành của khổ. |
750. Phàm khổ ǵ hiện hữu,
Tất cả duyên dao động,
Do đoạn diệt dao động,
Khổ không có hiện hữu. |
754. Etamādīnavaṃ ñatvā dukkhaṃ
iñjitapaccayā,
tasmā hi ejaṃ vossajja saṅkhāre uparundhiya,
anejo anupādāno sato bhikkhu paribbajeti. |
754.
Sau khi biết được điều ấy là bất lợi, (biết được) khổ do sự loạn
động là duyên, chính v́ thế, sau khi buông bỏ dục vọng, sau khi
chận đứng các hành, vị tỳ khưu không c̣n dục vọng, không có nắm
giữ, có niệm, nên ra đi du phương.” |
751. Do biết nguy hiểm này,
Khổ do duyên dao động,
Do vậy, bỏ dao động,
Chận dừng lại các hành,
Không có ǵ chướng ngại
Không chấp thủ, chánh niệm,
Vị Tỷ-kheo bộ hành,
Khắp tất cả chân trời. |
Siyā aññenapi —pe— kathañca siyā?
Nissitassa calitaṃ hotīti, ayamekānupassanā. Anissato na
calatīti, ayaṃ dutiyānupassanā. |
‘Có thể có —như trên— bằng một
phương thức khác,’ —như trên— Và có thể như thế nào? ‘Người bị
lệ thuộc có sự bị dao động,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Người
không bị lệ thuộc không dao động,’ đây là sự quán xét thứ nh́.
|
Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:...
"Ai có nương tựa, th́ bị dao động", đây là pháp tùy quán quán
thứ nhất. "Ai không có nương tựa, không bị dao động", đây là
pháp tùy quán thứ hai. |
Evaṃ sammā —pe— athāparaṃ
etadavoca satthā: |
(Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ
khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như
vậy —như trên— bậc Đạo Sư c̣n nói thêm điều này nữa:
|
Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn
chánh tùy quán hai pháp. Bậc Đạo Sư lại nói thêm: |
755. Anissito na calati nissito
ca upādiyaṃ,
itthabhāvaññathābhāvaṃ saṃsāraṃ nātivattati.
|
755. “Người
không bị lệ thuộc không dao động, và người bị lệ thuộc, trong
khi chấp thủ sự hiện hữu này và sự hiện hữu khác, không vượt qua
được luân hồi.
|
752. Không nương tựa, không động,
Nương tựa có chấp thủ,
Chấp hữu này, hữu khác,
Không chinh phục luân chuyển. |
756. Etamādīnavaṃ ñatvā nissayesu
mahabbhayaṃ,
anissito anupādāno sato bhikkhu paribbajeti. |
756.
Sau khi biết được điều ấy là bất lợi, (biết được) nỗi sợ hăi lớn
lao ở các sự lệ thuộc, vị tỳ khưu không bị lệ thuộc, không có
nắm giữ, có niệm, nên ra đi du phương.” |
753. Sau khi rơ biết được,
Nguy hiểm tai hại nầy,
Trong các sự nương tựa,
Có sợ hăi lớn lao,
Không nương tựa y chỉ,
Không chấp thủ, chánh niệm,
Vị Tỷ-kheo bộ hành,
Khắp tất cả chân trời. |
Siyā aññenapi —pe— kathañca siyā?
Rūpehi bhikkhave āruppā santatarāti, ayamekānupassanā. Āruppehi
nirodho santataroti, ayaṃ dutiyānupassanā. |
‘Có thể có —như trên— bằng một
phương thức khác,’ —như trên— Và có thể như thế nào? ‘Này các tỳ
khưu, các trạng thái vô sắc an tịnh hơn các trạng thái sắc,’ đây
là sự quán xét thứ nhất. ‘Sự diệt tận an tịnh hơn các trạng thái
vô sắc,’ đây là sự quán xét thứ nh́.
|
Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy
được hỏi thêm nữa như sau: "Có thể có như thế nào?" Này các
Tỷ-kheo "Các pháp vô sắc an tịnh hơn các sắc pháp", đây là pháp
tùy quán thứ nhất. "Sự đoạn diệt an tinh hơn các pháp vô sắc",
đây là pháp tùy quán thứ hai. |
Evaṃ sammā —pe— athāparaṃ
etadavoca satthā: |
(Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ
khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như
vậy —như trên— bậc Đạo Sư c̣n nói thêm điều này nữa:
|
Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn
chánh tùy quán hai pháp.
Bậc Đạo
Sư lại nói thêm: |
757. Ye ca rūpūpagā sattā ye ca
āruppavāsino,
nirodhaṃ appajānantā āgantāro punabbhavaṃ. |
757. “Và
những chúng sanh nào đă đi đến sắc giới, và những người nào trú
ở vô sắc giới, trong khi không biết toàn diện về tịch diệt (Niết
Bàn), là những người đi đến sự hiện hữu lại nữa. |
754. Chúng sanh thuộc sắc giới,
Chúng sanh trú vô sắc,
Không tuệ tri đoạn diệt,
Chúng đi đến tái sanh. |
758. Ye ca rūpe pariññāya arūpesu
susaṇṭhitā,
nirodhe ye vimuccanti te janā maccuhāyinoti. |
758.
Và những người nào sau khi biết toàn diện về sắc giới, đă khéo
đứng vững ở vô sắc giới, những người nào được giải thoát ở tịch
diệt (Niết Bàn), những người ấy có sự từ bỏ Tử Thần.”
|
755. Những ai liễu tri sắc,
Khéo an trú vô sắc,
Giải thoát trong đoạn diệt,
Họ từ bỏ sự chết. |
Siyā aññenapi —pe— kathañca siyā?
Yaṃ bhikkhave sadevakassa lokassa samārakassa sabrahmakassa
sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya idaṃ saccanti
upanijjhāyitaṃ tadamariyānaṃ etaṃ musāti yathābhūtaṃ
sammappaññāya sudiṭṭhaṃ, ayamekānupassanā. Yaṃ bhikkhave
sadevakassa lokassa samārakassa sabrahmakassa
sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya etaṃ musāti
upanijjhāyitaṃ tadamariyānaṃ etaṃ musāti yathābhūtaṃ
sammappaññāya sudiṭṭhaṃ, ayaṃ dutiyānupassanā.
|
‘Có thể có —như trên— bằng một
phương thức khác,’ —như trên— Và có thể như thế nào? ‘Này các tỳ
khưu, điều nào mà đối với thế gian, tính luôn cơi chư Thiên, cơi
Ma Vương, cơi Phạm Thiên, cho đến ḍng dơi Sa-môn, Bà-la-môn,
chư Thiên và loài người,được suy tưởng rằng: ‘Điều này là sự
thật,’ điều ấy đấy đối với các bậc Thánh được nh́n thấy rơ bằng
tuệ chân chánh đúng theo bản thể rằng: ‘Diều này là giả trá,’
đây là sự quán xét thứ nhất. Này các tỳ khưu, điều nào mà đối
với thế gian, tính luôn cơi chư Thiên, cơi Ma Vương, cơi Phạm
Thiên, cho đến ḍng dơi Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài
người,được suy tưởng rằng: ‘Điều này là giả trá,’ điều ấy đấy
đối với các bậc Thánh được nh́n thấy rơ bằng tuệ chân chánh đúng
theo bản thể rằng: ‘Diều này là sự thật,’ đây là sự quán xét thứ
hai.
|
Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy
được hỏi thêm nữa như sau: "Có thể có như thế nào?" Này các
Tỷ-kheo, "Cái ǵ được thế giới với chư Thiên, các Ma, các Phạm
thiên, được thế giới này với quần chúng Sa-môn và Bà-la-môn, với
chư Thiên và loài Người suy tưởng: "Đây là sự thật", cái ấy được
các vị Thánh khéo thấy như thật với chánh trí tuệ là: "Cái này
là hư vọng", đây là pháp tùy quán thứ nhất. Này các Tỷ-kheo,
"Cái ǵ được thế giới với chư Thiên, các Ma, các Phạm thiên,
được thế giới này với quần chúng Sa-môn và Bà-la-môn, với chư
Thiên và loài Người suy tưởng: "Đây là hư vọng", cái ấy được các
vị Thánh khéo thấy như thật với chánh trí tuệ là: "Cái này là
chân thật", đây là pháp tùy quán thứ hai. |
Evaṃ sammā —pe— athāparaṃ
etadavoca satthā: |
(Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ
khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như
vậy —như trên— bậc Đạo Sư c̣n nói thêm điều này nữa:
|
Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn
chánh tùy quán hai pháp.
Bậc Đạo Sư lại nói thêm: |
759. Anattani attamāniṃ passa
lokaṃ sadevakaṃ,
niviṭṭhaṃ nāmarūpasmiṃ idaṃ saccanti maññati. |
759. “Hăy
nh́n xem thế gian, tính luôn cơi chư Thiên, có sự hoan hỷ ở vô
ngă (và) bị ch́m đắm ở danh và sắc. Họ nghĩ rằng: ‘Điều này là
sự thật.’ |
756. Hăy xem thế giới nầy,
Với thế giới chư Thiên,
Hoan hỷ với phi ngă,
An trú trên danh sắc,
Nghĩ rằng danh sắc này
Là chân thật không ngụy. |
760. Yena yena hi maññanti tato taṃ hoti aññathā,
taṃ hi tassa musā hoti mosadhammaṃ hi ittaraṃ.
|
760.
Dẫu cho họ nghĩ thế nào, cái ấy trở thành cái khác so với chính
nó. Chính cái ấy trở nên giả trá đối với nó, bởi v́ nó có tính
chất giả trá và ngắn ngủi.
|
757. Dầu họ nghĩ thế nào,
Khi danh sắc đổi khác,
Danh sắc là hư vọng,
Giả dối sống tạm bợ, |
761. Amosadhammaṃ nibbānaṃ
tadariyā saccato viduṃ,
te ve saccābhisamayā nicchātā parinibbutāti. |
761.
Niết Bàn là pháp không giả trá, các bậc Thánh đă biết điều ấy là
sự thật. Những vị ấy, thật vậy, do sự lănh hội về sự thật, không
c̣n sự khao khát, được hoàn toàn tịch tịnh.” |
758. Niết-bàn không hư ngụy,
Bậc Thánh chân thật biết,
Họ thắng tri chân thật,
Không ái dục, tịch tịnh. |
Siyā aññenapi pariyāyena sammā
dvayatānupassanāti iti ce bhikkhave, pucchitāro assu siyātissu
vacanīyā, kathañca siyā? Yaṃ bhikkhave sadevakassa lokassa
samārakassa sabrahmakassa sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya
sadevamanussāya idaṃ sukhanti upanijjhāyitaṃ tadamariyānaṃ etaṃ
dukkhanti yathābhūtaṃ sammappaññāya sudiṭṭhaṃ, ayamekānupassanā.
Yaṃ bhikkhave sadevakassa lokassa samārakassa sabrahmakassa
sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya idaṃ dukkhanti
upanijjhāyitaṃ tadamariyānaṃ etaṃ sukhanti yathābhūtaṃ
sammappaññāya sudiṭṭhaṃ, ayaṃ dutiyānupassanā. |
‘Có thể có sự quán xét hai khía
cạnh một cách đúng đắn bằng một phương thức khác,’ này các tỳ
khưu, nếu có những người hỏi như thế, những người ấy nên được
nói như vầy: ‘Có thể.’ Và có thể như thế nào? ‘Này các tỳ khưu,
điều nào mà đối với thế gian, tính luôn cơi chư Thiên, cơi Ma
Vương, cơi Phạm Thiên, cho đến ḍng dơi Sa-môn, Bà-la-môn, chư
Thiên và loài người, được suy tưởng rằng: ‘Điều này là lạc,’
điều ấy đấy đối với các bậc Thánh được nh́n thấy rơ bằng tuệ
chân chánh đúng theo bản thể rằng: ‘Diều này là khổ,’ đây là sự
quán xét thứ nhất. Này các tỳ khưu, điều nào mà đối với thế
gian, tính luôn cơi chư Thiên, cơi Ma Vương, cơi Phạm Thiên, cho
đến ḍng dơi Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài người,được suy
tưởng rằng: ‘Điều này là khổ,’ điều ấy đấy đối với các bậc Thánh
được nh́n thấy rơ bằng tuệ chân chánh đúng theo bản thể rằng:
‘Diều này là lạc,’ đây là sự quán xét thứ hai.
|
Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy
được hỏi thêm nữa như sau: "Có thể có như thế nào?" Này các
Tỷ-kheo, "Cái ǵ được thế giới với chư Thiên, các Ma, các Phạm
thiên, được thế giới này với quần chúng Sa-môn và Bà-la-môn, với
chư Thiên và loài Người suy tưởng: "Đây là an lạc", cái ấy được
các vị Thánh khéo thấy như thật với chánh trí tuệ là: "Cái này
là khổ", đây là pháp tùy quán thứ nhất. Này các Tỷ-kheo, "Cái ǵ
được thế giới với chư Thiên, các Ma, các Phạm thiên, được thế
giới này với quần chúng Sa-môn và Bà-la-môn, với chư Thiên và
loài Người suy tưởng: "Đây là khổ", cái ấy được các vị Thánh
khéo thấy như thật với chánh trí tuệ là: "Cái này là lạc", đây
là pháp tùy quán thứ hai. |
Evaṃ sammā dvayatānupassino kho
bhikkhave, bhikkhuno appamattassa ātāpino pahitattassa viharato
dvinnaṃ phalānaṃ aññataraṃ phalaṃ pāṭikaṅkhaṃ diṭṭheva dhamme
aññā, sati vā upādisese anāgāmitāti. Idamavoca bhagavā. Idaṃ
vatvā sugato athāparaṃ etadavoca satthā: |
Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ
khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh một cách đúng đắn như
vậy, không bị xao lăng, có nhiệt tâm, có bản tánh cương quyết,
một quả báu nào đó trong hai quả báu là điều chờ đợi: trí giải
thoát ở đời hiện tại, hoặc nếu c̣n dư sót th́ phẩm vị Bất Lai.
Đức Thế Tôn đă nói điều này. Sau khi nói điều này, đấng Thiện
Thệ, bậc Đạo Sư c̣n nói thêm điều này nữa:
|
Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn
chánh tùy quán hai pháp.
Bậc Đạo Sư lại nói thêm: |
762. Rūpā saddā rasā gandhā
phassā dhammā ca kevalā,
iṭṭhā kantā manāpā ca yāvatatthīti vuccati. |
762. “Các
sắc, các thinh, các vị, các hương, các xúc, và các pháp, tất cả
là đáng mong, đáng yêu, và đáng mến khi nào chúng c̣n (có trạng
thái) được gọi là ‘hiện hữu.’ |
759. Sắc, tiếng, hương, vị, xúc,
Tất cả những pháp này,
Khả lạc, hỷ, khả ư,
Khi nào chúng hiện hữu. |
763. Sadevakassa lokassa ete vo
sukhasammatā,
yattha cete nirujjhanti taṃ tesaṃ dukkhasammataṃ. |
763.
Đối với thế gian, tính luôn cơi chư Thiên, các pháp này được
công nhận là lạc, và nơi nào các pháp này được diệt tận, điều ấy
đối với chúng được công nhận là khổ. |
760. Thế giới với chư Thiên
Xem chúng là khả lạc,
Khi chúng bị hoại diệt,
Mới thấy chúng là khổ. |
764. Sukhanti diṭṭhamariyehi
sakkāyassuparodhanaṃ,
paccanīkamidaṃ hoti sabbalokena passataṃ. |
764.
Sự hoại diệt của bản thân này được các bậc Thánh xem là ‘lạc,’
điều (nhận thức) này của các bậc đang nh́n thấy là đối nghịch
với tất cả thế gian. |
761. Bậc Thánh thấy là lạc,
Khi có thân đoạn diệt,
Đây hoàn toàn trái ngược,
Điều mọi giới được thấy. |
765. Yaṃ pare sukhato āhu
tadariyā āhu dukkhato,
yaṃ pare dukkhato āhu tadariyā sukhato viduṃ.1
|
765.
Điều nào những kẻ khác đă nói là lạc, điều ấy các bậc Thánh đă
nói là khổ. Điều nào những kẻ khác đă nói là khổ, điều ấy các
bậc Thánh đă biết là lạc.
|
762. Điều người khác gọi lạc,
Bậc Thánh gọi là khổ,
Điều người khác gọi khổ,
Bậc Thánh biết là lạc,
|
766. Passa dhammaṃ durājānaṃ
sampamūḷhettha aviddasu,
nivutānaṃ tamo hoti andhakāro apassataṃ. |
766.
Hăy nh́n xem Pháp khó nhận biết (Niết Bàn), ở đây những kẻ ngu
muội không nh́n thấy. Sự tối tăm là dành cho những kẻ bị che
đậy, bóng đêm là dành cho những kẻ không nh́n thấy.
|
Hăy xem pháp khó biết,
Kẻ không thấy mê mờ.
763. Kẻ bị che, tối tăm,
Kẻ không thấy, tối mù,
|
767. Satañca vivaṭaṃ hoti āloko
passatāmiva,
santike na vijānanti magā dhammass’ akovidā.
|
767.
Sự mở ra (Niết Bàn) là dành cho những người tốt lành, ví như ánh
sáng là dành cho những người đang nh́n thấy. Những kẻ ngu không
thông thạo Giáo Pháp không nhận thức được (dầu) ở gần bên.
|
Bậc thiện, được rộng mở,
Bậc thấy, được ánh sáng,
Kẻ ngu dầu có gần,
Cũng không biết con đường,
Cũng không có thiện xảo,
Đối Chánh pháp Phật dạy. |
768. Bhavarāgaparetehi
bhavasotānusāribhi,
māradheyyānupannehi nāyaṃ dhammo susambudho. |
768.
Pháp này không dễ dàng giác ngộ bởi những kẻ bị quấy nhiễu bởi
hữu ái, bởi những kẻ xuôi theo ḍng chảy của hữu, bởi những kẻ
đă đi vào tầm khống chế của Ma Vương. |
764. Bị hữu tham chiến bại,
Bị trôi theo ḍng hữu,
Rơi vào Ma chi phối,
Pháp này khó chánh giác. |
769. Ko nu aññatramariyehi padaṃ
sambuddhumarahati,
yaṃ padaṃ sammadaññāya parinibbanti anāsavāti. |
769.
Vậy người nào xứng đáng để giác ngộ vị thế (Niết Bàn) ngoại trừ
các bậc Thánh? Với sự nhận biết đúng đắn về vị thế ấy, các ngài
chứng đạt Niết Bàn, không c̣n lậu hoặc.” |
765. Ai ngoài các bậc Thánh,
Xứng đáng đạo chánh giác.
Do chánh trí đạo ấy
Chứng vô lậu Niết-bàn. |
Idamavoca bhagavā. Attamanā te
bhikkhū bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti. Imasmiṃ kho pana
veyyākaraṇasmiṃ bhaññamāne saṭṭhimattānaṃ bhikkhūnaṃ anupādāya
āsavehi cittāni vimucciṃsūti.
|
Đức Thế Tôn đă nói điều này. Được
hoan hỷ, các vị tỳ khưu ấy thỏa thích lời dạy của đức Thế Tôn.
Hơn nữa, trong khi sự thuyết giảng này được nói lên, tâm của sáu
mươi tỳ khưu ấy đă được giải thoát khỏi các lậu hoặc, do không
c̣n chấp thủ.
|
Thế Tôn thuyết như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỉ tín thọ lời Thế
Tôn dạy. Trong khi pháp này được giảng, tâm của hơn sáu mươi
Tỷ-kheo giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ. |
Dvayatānupassanā suttaṃ niṭṭhitaṃ.
|
Dứt Kinh Quán Xét Hai Khía Cạnh.
|
|
TASSUDDĀNAṂ
|
TÓM LƯỢC KINH NÀY
|
|
Saccaṃ upadhi avijjā ca
saṅkhāraviññāṇapañcamaṃ,
phassavedaniyā taṇhā
upādānarambhā āhārā,
iñjitaṃ calitaṃ
rūpaṃ saccaṃ dukkhena soḷasāti.
|
Sự thật, mầm tái sanh, vô minh,
các hành, và thức là thứ năm,
xúc, thọ, ái, thủ, sự khởi động,
các dưỡng chất,
sự loạn động, sự bị dao động,
sắc, sự thật, với khổ là mười sáu.
|
|
Mahāvaggo tatiyo. |
Đại Phẩm là thứ ba.
|
|
TASSA
VAGGASSUDDĀNAṂ
|
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
|
|
Pabbajjā ca padhānañca
subhāsitañca pūraḷāsaṃ
māghasuttañca sabhiyo ca selo
sallaṃ ca vuccati,
vāseṭṭho cāpi kokāli nālako
dvayatānupassanā
dvādasetāni suttāni mahāvaggoti
vuccatīti.
|
Việc xuất gia, sự nỗ lực, việc
khéo nói, và phần bánh cúng tế,
và Kinh về vị Māgha, vị Sabhiya,
vị Sela, và mũi tên được nói đến,
và vị Vāseṭṭha nữa, vị Kokāli, vị
Nālaka, việc quán xét hai khía cạnh,
mười hai bài Kinh này gọi là Đại
Phẩm.
|
|
|
|
|
<Trang
Trước> |
<Mục Lục><Đầu
Trang> |
<Trang Kế> |