Trang Chính

Dīghanikāya & Trường Bộ - tập I

Font VU-Times

 

TAM TẠNG PĀLI - VIỆT

 

DĪGHANIKĀYA & TRƯỜNG BỘ tập I

(Văn bản này được thực hiện tạm thời để nghiên cứu, không phải văn bản chính thức của Công Tŕnh Ấn Tống Tam Tạng Song Ngữ Pāli - Việt)

 

Cập Nhật: Monday, June 25, 2012

 

02. SĀMAÑÑAPHALASUTTAṂ

 

02. SĀMAÑÑAPHALASUTTAṂ - Tạng Miến Điện by Ven. Khánh Hỷ

02. KINH SA MÔN QUẢ -  HT. Thích Minh Châu, Nguồn: Budsas 7.07

Rājāmaccakathā

150. Evaṃ me sutaṃ, ekaṃ samayaṃ Bhagavā Rājagahe viharati Jīvakassa Komārabhaccassa ambavane mahatā bhikkhusaṃghena saddhiṃ aḍḍhateḷasehi bhikkhusatehi. Tena kho pana samayena rājā Māgado Ajātasattu Vedehiputto tadahuposathe pannarase komudiyā cātumāsiniyā puṇṇāya puṇṇamāya rattiyā rājāmaccaparivuto uparipāsādavaragato nisinno hoti. Atha kho rājā Māgadho Ajātasattu Vedehiputto tadahuposathe udānaṃ udānesi:
 

 

1. Như vậy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở tại Ràjagaha (Vương Xá) nơi vườn xoài của J́vaka (Kỳ-bà) Komàrabhacca, cùng với đại chúng Tỷ-kheo một ngh́n hai trăm năm mươi vị. Lúc bấy giờ Ajàtasattu (A-xà-thế) con bà Vihehi (Vi-đề-hi) vua xứ Magadha (Ma-kiệt-đà) nhân lễ Bố Tát vào ngày rằm tháng tư Komudi (cây súng) đang ngồi trên lầu cao trang nghiêm, chung quanh có nhiều đại thần hầu hạ. Lúc bấy giờ Ajàtasattu con bà Videhi, vua xứ Magadha, nhân ngày Bố Tát cảm hứng nói rằng:

“Ramaṇīyā vata bho dosinā ratti, abhirūpā vata bho dosinā ratti, dassanīyā vata bho dosinā ratti, pāsādikā vata bho dosinā ratti, lakkhaññā vata bho dosinā ratti, kaṃ nu khvajja samaṇaṃ vā brāhmaṇaṃ vā payirupāseyyāma, yaṃ no payirupāsato cittaṃ pasīdeyyā”ti.

 

"Thật khả ái thay, này các khanh, đêm rằm sáng trăng! Thật diễm lệ thay, này các khanh, đêm rằm sáng trăng! Thật mỹ miều thay, này các khanh, đêm rằm sáng trăng! Thật êm dịu thay, này các khanh, đêm rằm sáng trăng! Thật điềm lành thay, này các khanh, đêm rằm sáng trăng! Nay chúng ta nên đến chiêm bái vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào, nhờ sự chiêm bái này tâm chúng ta được tịnh tín?"

 

151. Evaṃ vutte aññataro rājāmacco rājānaṃ Māgadhaṃ Ajātasattuṃ Vedehiputtaṃ etadavoca “Ayaṃ deva Pūraṇo Kassapo saṅghī ceva gaṇī ca gaṇācariyo ca ñāto yasassī titthakaro sādhusammato bahujanassa rattaññū cirapabbajito addhagato vayo-anuppatto, taṃ devo Pūraṇaṃ Kassapaṃ payirupāsatu, appeva nāma devassa Pūraṇaṃ Kassapaṃ payirupāsato cittaṃ pasīdeyyā”ti. Evaṃ vutte rājā Māgadho Ajātasattu Vedehiputto tuṇhī ahosi.

 

Khi nghe nói vậy, một đại thần tâu với Ajàtasattu, con bà Videhi vua nước Magadha: "Tâu Đại vương, có Pùrana Kassapa (Phú-la Ca-diếp) là vị hội chủ, vị giáo trưởng, vị sư trưởng giáo hội, có tiếng tốt, có danh vọng, khai tổ giáo phái, được quần chúng tôn sùng, dồi dào kinh nghiệm lâu ngày, xuất gia đă lâu năm, đă đến tuổi trưởng thượng. Mong Đại vương đến chiêm bái Pùrana Kassapa này. Chiêm bái Pùrana Kassapa có thể khiến tâm Đại vương được tịnh tín". Khi nghe nói vậy Ajàtasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha yên lặng không nói ǵ.

 

152. Aññataropi kho rājāmacco rājānaṃ Māgadhaṃ Ajātasattuṃ Vedehiputtaṃ etadavoca “Ayaṃ deva Makkhali Gosālo saṅghī ceva gaṇī ca gaṇācariyo ca ñāto yasassī titthakaro sādhusammato bahujanassa rattaññū cirapabbajito addhagato vayo-anuppatto, taṃ devo Makkhaliṃ Gosālaṃ payirupāsatu, appeva nāma devassa Makkhaliṃ Gosālaṃ payirupāsato cittaṃ pasīdeyyā”ti. Evaṃ vutte rājā Māgadho Ajātasattu Vedehiputto tuṇhī ahosi.

 

3. Lại một đại thần khác tâu với Ajàtasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha: "Tâu Đại vương, có Makkhali Gosàla (Mặc-già-lê Cù-xá-lợi) là vị hội chủ, vị giáo trưởng, vị sư trưởng giáo hội, có tiếng tốt, có danh vọng khai tổ giáo phái, được quần chúng tôn sùng, dồi dào kinh nghiệm lâu ngày, xuất gia đă lâu năm, đă đến tuổi trưởng thượng. Mong Đại vương chiêm bái Makkhali Gosàla này. Chiêm bái vị Makkhali Gosàla có thể khiến tâm Đại vương được tịnh tín". Khi nghe nói vậy. Ajàtasattu, con bà Videhi vua nước Magadha yên lặng không nói ǵ.

 

153. Aññataropi kho rājāmacco rājānaṃ Māgadhaṃ Ajātasattuṃ Vedehiputtaṃ etadavoca “Ayaṃ deva Ajito Kesakambalo saṅghī ceva gaṇī ca gaṇācariyo ca ñāto yasassī titthakaro sādhusammato bahujanassa rattaññū cirapabbajito addhagato vayo-anuppatto, taṃ devo Ajitaṃ Kesakambalaṃ payirupāsatu, appeva nāma devassa Ajitaṃ Kesakambalaṃ payirupāsatu, appeva nāma devassa Ajitaṃ Kesakambalaṃ payirupāsato cittaṃ pasīdeyyā”ti. Evaṃ vutte rājā Māgadho Ajātasattu Vedehiputto tuṇhī ahosi.

4. Lại một đại thần khác tâu với Ajàtasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha: "Tâu Đại vương, có Ajita Kesakambàli (A-kỳ-đa Kỳ-xá-khâm-bà-la) là vị hội chủ, vị giáo trưởng, vị sư trưởng giáo hội, có tiếng tốt, có danh vọng, khai tổ giáo phái, được quần chúng tôn sùng, dồi dào kinh nghiệm lâu ngày, xuất gia đă lâu năm, đă đến tuổi trưởng thượng. Mong Đại vương đến chiêm bái Ajita Kesakambàli này. Chiêm bái Ajita Kesakambàli có thể khiến tâm Đại vương được tịnh tín". Khi nghe nói vậy, Ajàtasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha yên lặng không nói ǵ.

 

154. Aññataropi kho rājāmacco rājānaṃ Māgadhaṃ Ajātasattuṃ Vedehiputtaṃ etadavoca “Ayaṃ deva Pakudho (Pakuddho - Sī) Kaccāyano saṅghī ceva gaṇī ca gaṇācariyo ca ñāto yasassī titthakaro sādhusammato bahujanassa rattaññū cirapabbajito addhagato vayo-anuppatto, taṃ devo Pakudhaṃ Kaccāyanaṃ payirupāsatu, appeva nāma devassa Pakudhaṃ Kaccāyanaṃ payirupāsato cittaṃ pasīdeyyā”ti. Evaṃ vutte rājā Māgadho Ajātasattu Vedehiputto tuṇhī ahosi.
 

5. Lại một đại thần khác tâu với Ajàtasattu, con bà Videhi vua nước Magadha: "Tâu Đại vương, có Pakudha Kaccayana (Bà-phù-đà Ca-chiên-nê) là vị hội chủ, vị giáo trưởng, vị sư trưởng giáo hội, có tiếng tốt, có danh vọng, khai tổ giáo phái, được quần chúng tôn sùng, dồi dào kinh nghiệm lâu ngày, xuất gia đă lâu năm, đă đến tuổi trưởng thượng. Mong Đại vương đến chiêm bái Pakudha Kaccàyana này. Chiêm bái Pakudha Kaccayana này có thể khiến tâm Đại vương được tịnh tín". Khi nghe nói vậy. Ajàtasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha yên lặng không nói ǵ.

 

155. Aññataropi kho rājāmacco rājānaṃ Māgadhaṃ Ajātasattuṃ Vedehiputtaṃ etadavoca “Ayaṃ deva Sañcayo (Sañjayo - Sī, Syā) Belaṭṭhaputto (Bellaṭṭhiputto - Sī; velaṭṭhaputto - Syā) saṅghī ceva gaṇī ca gaṇācariyo ca ñāto yasassī titthakaro sādhusammato bahujanassa rattaññū cirapabbajito addhagato vayo-anuppatto, taṃ devo Sañcayaṃ Belaṭṭhaputtaṃ payirupāsatu, appeva nāma devassa Sañcayaṃ Belaṭṭhaputtaṃ payirupāsato cittaṃ pasīdeyyā”ti. Evaṃ vutte rājā Māgadho Ajātasattu Vedehiputto tuṇhī ahosi.

6. Lại một đại thần khác tâu với Ajàtasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha: "Tâu Đại vương, có Sanjaya Belathiputta (Tán-nhă-di Tỳ-la-phê-phất) là vị hội chủ, vị giáo trưởng, vị sư trưởng giáo hội, có tiếng tốt, có danh vọng, khai tổ giáo phái, được quần chúng tôn sùng, dồi dào kinh nghiệm lâu ngày, xuất gia đă lâu năm, đă đến tuổi trưởng thượng. Mong Đại vương đến chiêm bái Sanjaya Belathiputta này. Chiêm bái Sanjaya Belathiputta này có thể khiến tâm Đại vương tịnh tín". Khi nghe nói vậy, Ajàtasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha yên lặng không nói ǵ.

 

156. Aññataropi kho rājāmacco rājānaṃ Māgadhaṃ Ajātasattuṃ Vedehiputtaṃ etadavoca “Ayaṃ deva Nigaṇṭho Nāṭaputto (Nāthaputto - Sī; nātaputto - I) saṅghī ceva gaṇī ca gaṇācariyo ca ñāto yasassī titthakaro sādhusammato bahujanassa rattaññū cirapabbajito addhagato vayo-anuppatto, taṃ devo Nigaṇṭhaṃ Nāṭaputtaṃ payirupāsatu, appeva nāma devassa Nigaṇṭhaṃ Nāṭaputtaṃ payirupāsato cittaṃ pasīdeyyā”ti. Evaṃ vutte rājā Māgadho Ajātasattu Vedehiputto tuṇhī ahosi.

7. Lại một đại thần khác tâu với Ajàtasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha: "Tâu Đại vương, có Nigantha Nàtaputta (Ni-kiền-tử) là vị hội chủ, vị giáo trưởng, vị sư trưởng giáo hội, có tiếng tốt, có danh vọng, khai tổ giáo phái, được quần chúng tôn sùng, dồi dào kinh nghiệm lâu ngày, xuất gia đă lâu năm, đă đến tuổi trưởng thượng. Mong Đại vương đến chiêm bái Nigantha Nàtaputta này. Chiêm bái Nigantha Nàtaputta có thể khiến tâm Đại vương được tịnh tín". Khi nghe nói vậy, Ajàtasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha yên lặng không nói ǵ.

 

Komārabhaccajīvakakathā

            157. Tena kho pana samayena Jīvako Komārabhacco rañño Māgadhassa Ajātasattussa Vedehiputtassa avidūre tuṇhībhūto nisinno hoti. Atha kho rājā Māgadho Ajātasattu Vedehiputto Jīvakaṃ Komārabhaccaṃ etadavoca “Tvaṃ pana samma Jīvaka kiṃ tuṇhī”ti.   

 

 

8. Lúc bấy giờ J́vaka Komàrabhacca ngồi yên lặng cách Ajàtasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha không xa bao nhiêu. Khi ấy Ajàtasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha, nói với J́vaka Komàrabhacca:

- Này khanh J́vaka, sao ngươi lại yên lặng như vậy?

 

Ayaṃ deva Bhagavā Arahaṃ Sammāsambuddho amhākaṃ ambavane viharati mahatā bhikkhusaṃghena saddhiṃ aḍḍhateḷasehi bhikkhusatehi, taṃ kho pana Bhagavantaṃ (Bhagavantaṃ gotamaṃ - Sī, Ka, I) evaṃ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato “Itipi so Bhagavā Arahaṃ Sammāsambuddho Vijjācaraṇasampanno Sugato Lokavidū Anuttaro purisadammasārathi Satthā devamanussānaṃ Buddho Bhagavā”ti. Taṃ devo Bhagavantaṃ payirupāsatu, appeva nāma devassa Bhagavantaṃ payirupāsato cittaṃ pasīdeyyāti.

158. Tena hi samma jīvaka hatthiyānāni kappāpehīti.
 
 

- Tâu Đại vương, chính tại vườn xoài này của chúng con, có Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác, hiện đang trú ngụ với đại chúng Tỷ-kheo một ngh́n hai trăm năm mươi vị. Thế Tôn Gotama có tiếng đồn tốt đẹp sau đây lan rộng: "Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn". Đại vương hăy đến chiêm bái Thế Tôn này. Rất có thể, nhờ chiêm bái Thế Tôn, tâm của Đại vương được tịnh tín.

 

- Vậy khanh J́vaka, hăy cho thắng kiệu voi.

“Evaṃ devā”ti kho Jīvako Komārabhacco rañño Māgadhassa Ajātasattussa Vedehiputtassa paṭissuṇitvā pañcamattāni hatthinikāsatāni kappāpetvā rañño ca ārohaṇīyaṃ nāgaṃ, rañño Māgadhassa Ajātasattussa Vedehiputtassa paṭivedesi “Kappitāni kho te deva hatthiyānāni, yassadāni kālaṃ maññasī”ti.
 

- Vâng, tâu Đại vương.

9. J́vaka Komàrabhacca vâng theo lời dạy của Ajàtasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha, sai người thắng năm trăm con voi cái, và con vương tượng vua thường cởi, rồi tâu với Ajàtasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha: "Tâu Đại vương, các kiệu voi đă sẵn sàng. Ngài hăy làm những ǵ Ngài xem là phải thời".

 

159. Atha kho rājā Māgadho Ajātasattu Vedehiputto pañcasu hatthinikāsatesu paccekā itthiyo āropetvā ārohaṇīyaṃ nāgaṃ abhiruhitvā ukkāsu dhāriyamānāsu Rājagahamhā niyyāsi mahaccarājānubhāvena, yena Jīvakassa Komārabhaccassa ambavanaṃ tena pāyāsi.

Khi bấy giờ Ajàtasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha biểu các cung phi leo lên năm trăm con voi cái mỗi người một con, c̣n ḿnh th́ leo lên vương tượng vua thường cởi, xuất hành ra khỏi Ràjagaha, dưới ánh sáng của các ngọn đuốc được cầm cao, với oai nghi của bậc đại vương, thẳng tiến đến vườn xoài của J́vaka Komàrabhacca.

 

Atha kho rañño Māgadhassa Ajātasattussa Vedehiputtassa avidūre ambavanassa ahudeva bhayaṃ, ahu chambhitattaṃ, ahu lomahaṃso. Atha kho rājā Māgadho Ajātasattu Vedehiputto bhīto saṃviggo lomahaṭṭajāto Jīvakaṃ Komārabhaccaṃ etadavoca “Kacci maṃ samma Jīvaka na vañcesi, kacci maṃ samma Jīvaka na palambhesi, kacci maṃ samma Jīvaka na paccatthikānaṃ desi. Kathaṃ hi nāma tāva mahato bhikkhusaṃghassa aḍḍhateḷasānaṃ bhikkhusatānaṃ neva khipitasaddo bhavissati, na ukkāsitasaddo, na nigghoso”ti.

10. Khi Ajàtasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha đi đến không xa vườn xoài, ngài bỗng sợ hăi, kinh hoàng, tóc dựng lên. Lúc bấy giờ Ajàtasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha sợ hăi, kinh hoàng, tóc dựng lên, nói với J́vaka Komàrabhacca:

- Này khanh J́vaka, người phản ta chăng? Này khanh J́vaka, người lường gạt ta chăng? Này khanh J́vaka, ngươi nạp ta cho kẻ thù chăng? Tại sao trong một đại chúng lớn như thế này gần một ngh́n hai trăm năm mươi vị, mà không có một tiếng đằng hắng, không có một tiếng ho, không một tiếng ồn?

 

Mā bhāyi mahārāja, mā bhāyi mahārāja, na taṃ deva vañcemi, na taṃ deva palambhāmi, na taṃ deva paccatthikānaṃ demi, abhikkama mahārāja, abhikkama mahārāja, ete maṇḍalamāḷe dīpā (Padīpā - Sī, Syā) jhāyantīti.

 

- Tâu Đại vương, thần không phản lại Ngài, thần không lường gạt Ngài, tâu Đại vương, thần không nạp Ngài cho kẻ thù, tâu Đại Vương, hăy đi thẳng tới; tâu Đại vương hăy đi thẳng tới. Tại chỗ kia trong căn nhà tṛn chỗ có những ngọn đèn đang thắp sáng.

Sāmaññaphalapucchā

160. Atha kho rājā Māgadho Ajātasattu Vedehiputto yāvatikā nāgassa bhūmi nāgena gantvā nāgā paccorohitvā pattikova (Padikova - Syā) yena maṇḍalamālassa dvāraṃ tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā Jīvakaṃ Komārabhaccaṃ etadavoca “Kahaṃ pana samma Jīvaka Bhagavā”ti. Eso mahārāja Bhagavā, eso mahārāja Bhagavā majjhimaṃ thambhaṃ nissāya puratthābhimukho nisinno purakkhato bhikkhusaṃghassāti.

 

 

11. Lúc bấy giờ, Ajàtasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha đi cho đến chỗ voi có thể đi được, rồi xuống voi đi đến cửa căn nhà tṛn. Khi đến nơi liền nói với J́vaka Komàrabhacca:

- Này khanh J́vaka, Thế Tôn ở tại đâu?

- Tâu Đại vương, vị ấy là Thế Tôn. Tâu Đại vương, Thế Tôn ngồi dựa vào cột chính giữa, mặt hướng phía Nam, ngồi trước mặt chúng Tỷ-kheo.

 

161. Atha kho rājā Māgadho Ajātasattu Vedehiputto yena Bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho rājā Māgadho Ajātasattu Vedehiputto tuṇhībhūtaṃ bhikkhusaṃghaṃ anuviloketvā rahadamiva vippasannaṃ udānaṃ udānesi “Iminā me upasamena Udayabhaddo (Udāyibhaddo - Sī, I) kumāro samannāgato hotu, yenetarahi upasamena bhikkhusaṃgho samannāgato”ti. Agamā kho tvaṃ mahārāja yathāpemanti.

12. Ajàtasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha liền tiến đến chỗ Thế Tôn. Khi đến rồi, vua đứng một bên. Sau đi đứng một bên, Ajàtasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha nh́n khắp chúng Tỷ-kheo đang yên lặng an tịnh như một hồ nước trong, cảm hứng nói rằng: "Mong hoàng tử Udàyibhadda (Ưu-đà-di-bạt-đà) cũng được sự trầm lặng như sự trầm lặng của các vị Tỷ-kheo này vậy".

- Đại vương, h́nh như tâm trí của Đại vương nặng nhiều về t́nh thương th́ phải?

 

Piyo me bhante Udayabhaddo kumāro, iminā me bhante upasamena udayabhaddo kumāro samannāgato hotu, yenetarahi upasamena bhikkhusaṃgho samannāgatoti.

 

- Bạch Thế Tôn, con thương hoàng tử Udàyibhadda rất nhiều. Mong rằng hoàng tử Udàyibhadda cũng được sự trầm lặng như sự trầm lặng của chúng Tỷ-kheo này vậy.

162. Atha kho rājā Māgadho Ajātasattu Vedehiputto Bhagavantaṃ abhivādetvā bhikkhusaṃghassa añjaliṃ paṇāmetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho rājā Māgadho Ajātasattu Vedehiputto Bhagavantaṃ etadavoca “Puccheyyāmahaṃ bhante Bhagavantaṃ kañcideva desaṃ (Kiñcideva desaṃ lesamattaṃ - Syā, Kaṃ, Ka) sace me Bhagavā okāsaṃ karoti pañhassa veyyākaraṇāyā”ti. Puccha mahārāja, yadākaṅkhasīti.

13. Lúc bấy giờ Ajàtasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha, đảnh lễ Thế Tôn, chấp tay vái chào chúng Tỷ-kheo, và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Ajàtasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha bạch Thế Tôn:

- Bạch Thế Tôn, con muốn hỏi Thế Tôn một vấn đề này, nếu Ngài cho phép con hỏi.

- Đại vương cứ hỏi tùy theo ư muốn của Đại vương.

 

163. Yathā nu kho imāni bhante puthusippāyatanāni, seyyathidaṃ, hatthārohā assārohā rathikā dhanuggahā celakā calakā piṇḍadāyakā uggā rājaputtā pakkhandino mahānāgā sūrā cammayodhino dāsikaputtā āḷārikā kappakā nhāpakā (Nahāpikā - Sī; nhāpikā - Syā) sūdā mālakārā rajakā pesakārā naḷakārā kumbhakārā gaṇakā muddikā, yāni vā panaññānipi evaṃgatāni puthusippāyatanāni, te diṭṭheva dhamme sandiṭṭhikaṃ sippaphalaṃ upajīvanti, te tena attānaṃ sukhenti pīṇenti (Pīnenti - Katthaci), mātāpitaro sukhenti pīṇenti, puttadāraṃ sukhenti pīṇenti, mittāmacce sukhenti pīṇenti, samaṇabrāhmaṇesu (Samaṇesu brāhmaṇesu - Ka) uddhaggikaṃ dakkhiṇaṃ patiṭṭhapenti sovaggikaṃ sukhavipākaṃ saggasaṃvattanikaṃ. Sakkā nu kho bhante evameva diṭṭheva dhamme sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ paññapetunti.

 

14. - Cũng như các công nghệ chức nghiệp này, như điều tượng sư, điều mă sư, xa thuật sư, quân thuật sư, quân kỳ binh, nguyên súy, chiến sĩ, thượng sĩ quan, thám tử, dơng sĩ can đảm như voi chúa, anh hùng, trang giáp binh, nô lệ xuất thân, hỏa đầu quân, thợ hớt tóc, người hầu tắm, thợ làm bánh, nhà làm ṿng hoa, thợ giặt, thợ dệt, nhà làm thúng rổ, thợ đồ gốm, nhà toán số, nhà ấn bản và các công nghệ chức nghiệp khác, chúng hưởng được kết quả thiết thực hiện tại từ công nghiệp chức nghiệp của chúng. Chúng giúp cho tự thân được sống an lạc, hạnh phúc. Chúng giúp cho vợ con được sống an lạc hạnh phúc. Chúng giúp cho cha mẹ được sống an lạc, hạnh phúc. Chúng giúp cho bạn bè được sống an lạc hạnh phúc. Chúng dâng các vật cúng dường cho Sa-môn, Bà-la-môn, sự cúng dường này có ảnh hưởng đến đời sau, liên hệ đến thiên giới, thọ hưởng phước báo an lạc, thác sanh lên cơi trời. Bạch Thế Tôn, Ngài có thể chỉ cho rơ ràng kết quả thiết thực, hiện tại của hạnh Sa-môn chăng?

 

164. Abhijānāti no tvaṃ mahārāja imaṃ pañhaṃ aññe samaṇabrāhmaṇe pucchitāti.

Abhijānāmahaṃ bhante imaṃ pañhaṃ aññe samaṇabrāhmaṇe pucchitāti.

Yathā kathaṃ pana te mahārāja byākariṃsu, sace te agaru, bhāsassūti.

Na kho me bhante garu, yatthassa Bhagavā nisinno Bhagavantarūpo vāti (Cāti - Sī, Ka).

Tena hi mahārāja bhāsassūti.

15. - Này Đại vương, Đại vương có nhớ đă hỏi câu hỏi ấy với các vị Sa-môn, Bà-la-môn khác chăng?

- Bạch Ngài, con nhớ đă hỏi câu hỏi ấy với Sa-môn, Bà-la-môn khác.

- Này Đại vương, hăy nói lại cho nghe, các vị ấy đă trả lời với Đại vương như thế nào, nếu Đại vương không thấy ǵ trở ngại.

- Bạch Thế Tôn, con không thấy ǵ trở ngại đối với đức Thế Tôn và các bậc như đức Thế Tôn.

- Vậy Đại vương hăy nói đi.

 

Pūraṇakassapavāda

165. Ekamidāhaṃ bhante samayaṃ yena Pūraṇo Kassapo tenupasaṅkamiṃ, upasaṅkamitvā Pūraṇena Kassapena saddhiṃ sammodiṃ, sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdiṃ. Ekamantaṃ nisinno kho ahaṃ bhante Pūraṇaṃ Kassapaṃ etadavocaṃ “Yathā nu kho imāni bho Kassapa puthusippāyatanāni, seyyathidaṃ hatthārohā assārohā rathikā dhanuggahā celakā calakā piṇḍadāyakā uggā rājaputtā pakkhandino mahānāgā sūrā cammayodhino dāsikaputtā āḷārikā kappakā nhāpakā sūdā mālakārā rajakā pesakārā naḷakārā kumbhakārā gaṇakā muddikā, yāni vā panaññānipi evaṃgatāni puthusippāyatanāni, te diṭṭheva dhamme sandiṭṭhikaṃ sippaphalaṃ upajīvanti, te tena attānaṃ sukhenti pīṇenti, mātāpitaro sukhenti pīṇenti, puttadāraṃ sukhenti pīṇenti, mittāmacce sukhenti pīṇenti, samaṇabrāhmaṇesu uddhaggikaṃ dakkhiṇaṃ patiṭṭhapenti sovaggikaṃ sukhavipākaṃ saggasaṃvattanikaṃ. Sakkā nu kho bho Kassapa evameva diṭṭheva dhamme sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ paññapetun”ti.


 

 

16.  - Bạch Thế Tôn, một thời con đến Pùrana Kassapa, khi đến nơi, con nói lên những lời đón chào, chúc tụng thân hữu và xă giao với Pùrana Kassapa và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, con nói với Pùrana Kassapa: "Ngài Kassapa, cũng như các công nghệ, chức nghiệp này, như điều tượng sư, điều mă sư, xa thuật sư, cung thuật sư, quân kỳ binh, nguyên súy, chiến sĩ, thượng sĩ quan, thám tử, dơng sĩ can đảm như voi chúa, anh hùng, trang giáp binh, nô lệ xuất thân, hỏa đầu quân, thợ hớt tóc, người hầu tắm, thợ làm bánh, nhà làm ṿng hoa, thợ giặt, thợ dệt, nhà làm thúng rổ, thợ đồ gốm, nhà toán số, nhà ấn bản và các công nghệ chức nghiệp khác, chúng hưởng được kết quả thiết thực, hiện tại công nghệ chức nghiệp của chúng. Chúng giúp cho tự thân được sống an lạc, hạnh phúc. Chúng giúp cho cha mẹ được sống an lạc, hạnh phúc. Chúng giúp cho vợ con được sống an lạc, hạnh phúc. Chúng giúp cho bạn bè được sống an lạc, hạnh phúc. Chúng dâng các vật cúng dường cho Sa-môn, Bà-la-môn, sự cúng dường này có ảnh hưởng đến đời sau, liên hệ đến thiên giới, thọ hưởng phước báo an lạc, thác sanh lên cơi trời. Bạch Ngài, Ngài có thể cho biết kết quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn chăng?"

 

166. Evaṃ vutte bhante Pūraṇo Kassapo maṃ etadavoca “Karoto kho mahārāja kārayato, chindato chedāpayato, pacato pācāpayato, socayato socāpayato, kilamato kilamāpayato, phandato phandāpayato, pāṇamatipātāpayato, adinnaṃ ādiyato, sandhiṃ chindato, nillopaṃ harato, ekāgārikaṃ karoto, paripanthe tiṭṭhato, paradāraṃ gacchato, musā bhaṇato, karoto na karīyati pāpaṃ. Khurapariyantena cepi cakkena yo imissā pathaviyā pāṇe ekaṃ maṃsakhalaṃ ekaṃ maṃsapuñjaṃ kareyya, natthi tatonidānaṃ pāpaṃ, natthi pāpassa āgamo. Dakkhiṇañcepi gaṅgāya tīraṃ gaccheyya hananto ghātento chindanto chedāpento pacanto pācāpento, natthi tatonidānaṃ pāpaṃ, natthi pāpassa āgamo. Uttarañcepi gaṅgāya tīraṃ gaccheyya dadanto dāpento yajanto yajāpento, natthi tatonidānaṃ puññaṃ, natthi puññassa āgamo. Dānena damena saṃyamena saccavajjena natthi puññaṃ, natthi puññassa āgamo”ti.

17. Bạch Thế Tôn, khi nghe nói vậy, Pùrana Kassapa đă nói với con: "Này Đại vương, tự làm hay khiến người làm, chém giết hay khiến người chém giết, đốt nấu hay khiến người đốt nấu, gây phiền muộn hay khiến người gây phiền muộn, gây áo năo hay khiến người gây áo năo, tự ḿnh gây sợ hăi hay khiến người gây sợ hăi, sát sanh, lấy của không cho, phá cửa nhà mà vào, cướp bóc, đánh cướp một nhà lẻ loi, chận đường cướp giựt, tư thông vợ người, nói láo, hành động như vậy không có tội ác ǵ. Nếu lấy một bánh xe sắc bén giết hại tất cả chúng sanh trên cơi đất thành một đống thịt, thành một chồng chịt, cũng không v́ vậy mà có tội ác, mà gây ra tội ác. Nếu có người đi trên bờ phía Nam sông Hằng giết hại, tàn sát, chém giết, khiến người chém giết, đốt nấu, khiến người đốt nấu, cũng không v́ vậy mà có tội ác, mà gây ra tội ác. Nếu có người đi trên bờ phía Bắc sông Hằng bố thí, khiến người bố thí, tế lễ, khiến người tế lễ, cũng không v́ vậy mà có phước báo".

 

Itthaṃ kho me bhante Pūraṇo Kassapo sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ puṭṭho samāno akiriyaṃ byākāsi.

Seyyathāpi bhante ambaṃ vā puṭṭho labujaṃ byākareyya, labujaṃ vā puṭṭho ambaṃ byākareyya. Evameva kho me bhante Pūraṇo Kassapo sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ puṭṭho samāno akiriyaṃ byākāsi,

 

Bạch Thế Tôn, khi được hỏi về kết quả hiện tại thiết thực của hạnh Sa-môn, Pùrana Kassapa đă trả lời với thuyết vô nghiệp. Bạch Thế Tôn, cũng như hỏi về trái xoài lại trả lời về trái mít, hoặc hỏi về trái mít lại trả lời về trái xoài. Cũng vậy, Bạch Thế Tôn, khi được hỏi về kết quả hiện tại thiết thực của hạnh Sa-môn, Purana Kassapa đă trả lời với thuyết vô nghiệp.

 

Tassa mayhaṃ bhante etadahosi “Kathaṃ hi nāma mādiso samaṇaṃ vā brāhmaṇaṃ vā vijite vasantaṃ apasādetabbaṃ maññeyyā”ti. So kho ahaṃ bhante Pūraṇassa Kassapassa bhāsitaṃ neva abhinandiṃ nappaṭikkosiṃ, anabhinanditvā apaṭikkositvā anattamano anattamanavācaṃ anicchāretvā tameva vācaṃ anuggaṇhanto anikkujjanto (Anikkujjento - Syā, Kaṃ, Ka) uṭṭhāyāsanā pakkamiṃ (Pakkāmiṃ - Sī, Syā, Kaṃ, I).

 

Bạch Thế Tôn, con nghĩ: "Làm sao một người như con lại có thể làm một vị Sa-môn hay Bà-la-môn ở trong nước con không được vui ḷng?" V́ vậy bạch Thế Tôn, con không tán thán, cũng không cật nạn lời nói của Pùrana Kassapa. Không tán thán, không cật nạn, dầu không măn nguyện cũng không thốt ra lời bất măn, không công nhận cũng như không bác bỏ, con từ chỗ ngồi đứng dậy ra về.

Makkhaligosālavāda

167. Ekamidāhaṃ bhante samayaṃ yena Makkhali Gosālo tenupasaṅkamiṃ, upasaṅkamitvā Makkhalinā Gosālena saddhiṃ sammodiṃ, sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdiṃ. Ekamantaṃ nisinno kho ahaṃ bhante Makkhaliṃ Gosālaṃ etadavocaṃ “Yatthā nu kho imāni bho Gosāla puthusippāyatanāni ‑pa‑. Sakkā nu kho bho Gosāla evameva diṭṭheva dhamme sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ paññapetun”ti.

 

 

19. Bạch Thế Tôn, một thời con đến Makkhali Gosàla (Mạt-già-lê-cù-xá-lợi). Khi đến nơi, con nói lên những lời đón chào tụng thân hữu và xă giao với Makkhali Gosàla và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, con nói với Makkhali Gosàla: "Ngài Gosàla, cũng như các công kỹ nghệ chức nghiệp như điều tượng sư... (như trên)... Bạch Ngài, Ngài có thể cho biết kết quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn chăng?"

168. Evaṃ vutte bhante Makkhali Gosālo maṃ etadavoca “Natthi mahārāja hetu natthi paccayo sattānaṃ saṃkilesāya, ahetū (Ahetu - Katthaci) apaccayā sattā saṃkilissanti. Natthi hetu natthi paccayo sattānaṃ visuddhiyā, ahetū apaccayā sattā visujjhanti. Natthi attakāre, natthi parakāre, natthi purisakāre, natthi balaṃ, natthi vīriyaṃ, natthi purisathāmo, natthi purisaparakkamo, sabbe sattā sabbe pāṇā sabbe bhūtā sabbe jīvā avasā abalā avīriyā niyatisaṃgatibhāvapariṇatā chasvevābhijātīsu sukhadukkhaṃ (Sukhañca dukkhañca - Syā) paṭisaṃvedenti.

20. Bạch Thế Tôn, khi nghe nói vậy, Makkhali Gosàla đă nói với con: "Này Đại vương, không có nhơn, không có duyên, các loài hữu t́nh bị nhiễm ô; vô nhân, vô duyên, các loài hữu t́nh bị nhiễm ô. Không có nhân, không có duyên, các loài hữu t́nh được thanh tịnh; vô nhân, vô duyên, các loài hữu t́nh được thanh tịnh. Không có tự tác, không có tha tác, không có nhân tác, không có lực, không có tinh tấn, không có nhân lực, không có sự cố gắng của người. Tất cả loài hữu t́nh, tất cả sanh vật, tất cả sinh loại, tất cả sinh mạng đều không tự tại, không lực, không tinh tấn. Chúng bị dắt dẫn, chi phối bởi định mệnh, bởi điều kiện bộ loại của chúng, bởi cá tánh của chúng. Chúng hưởng thọ khổ lạc, y theo sáu loại thác sanh của chúng.

 

Cuddasa kho panimāni yonipamukhasatasahassāni saṭṭhi ca satāni cha ca satāni pañca ca kammuno satāni pañca ca kammāni tīṇi ca kammāni kamme ca aḍḍhakamme ca dvaṭṭhipaṭipadā dvaṭṭhantarakappā chaḷābhijātiyo aṭṭha purisabhūmiyo ekūnapaññāsa ājīvakasate ekūnapaññāsa paribbājakasate ekūnapaññāsa nāgāvāsasate vīse indriyasate tiṃse nirayasate chattiṃsa rajodhātuyo satta saññīgabbhā satta asaññīgabbhā satta nigaṇṭhigabbhā satta devā satta mānusā satta pisācā satta sarā satta pavuṭā (Sapuṭā - Ka; pabuṭā - Sī) satta pavuṭasatāni satta papātā satta papātasatāni satta supinā satta supinasatāni cullāsīti mahākappino (Mahākappuno - Ka—Sī, I) satasahassāni, yāni bāle ca paṇḍite ca sandhāvitvā saṃsaritvā dukkhassantaṃ karissanti,

Có tất cả là một triệu bốn trăm ngàn chủng loại thác sanh, lại có thể sáu ngàn và có thêm sáu trăm nữa. Có năm trăm loại nghiệp và có năm nghiệp (theo năm căn), lại có ba nghiệp (về thân, khẩu, ư) lại có toàn nghiệp (thân và khẩu) và bán nghiệp (ư), có sáu mươi hai đạo, sau mươi hai trung kiếp, sáu giai cấp, tám nhân địa, bốn ngàn chín trăm sanh nghiệp, bốn ngàn chín trăm kẻ du hành, bốn ngàn chín trăm chỗ ở của loài Naga, hai ngh́n căn, ba ngh́n cảnh địa ngục, ba mươi sáu trần giới, bảy tưởng thai, bảy vô tưởng thai, bảy tiết thai (sanh từ đốt), bảy loài thiên, bảy loài người, bảy loài quỷ, bảy hồ nước, bảy pavutas (rừng hay hồ nhỏ) bảy trăm pavutas bảy vực thẳm, bảy trăm papatas (vực thẳm), bảy mộng, bảy trăm mộng, có tám trăm bốn mươi vạn đại kiếp, trong thời gian ấy kẻ ngu và người hiền sau khi lưu chuyển luân hồi sẽ trừ tận khổ đau.

 

tattha natthi ‘Imināhaṃ sīlena vā vatena vā tapena vā brahmacariyena vā aparipakkaṃ vā kammaṃ paripācessāmi, paripakkaṃ vā kammaṃ phussa phussa byantiṃ karissāmī’ti hevaṃ natthi. Doṇamite sukhadukkhe, pariyantakate saṃsāre natthi hāyanavaḍḍhane, natthi ukkaṃsāvakaṃse. Seyyathāpi nāma suttaguḷe Khitte nibbeṭhiyamānameva paleti, evameva bāle ca paṇḍite ca sandhāvitvā saṃsaritvā dukkhassantaṃ karissantī”ti.

Không có lời nguyện: với giới hạnh này, với kỷ luật này, với khổ hạnh này hay với phạm hạnh này, tôi sẽ làm cho chín muồi những nghiệp chưa được thuần thục, hoặc trừ diệt những nghiệp đă thuần thục bởi những nhẫn thọ liên tục, không thể đo lường khổ và lạc với những vật đo lường, trong khi luân hồi không có giảm tăng, không có thặng dư, thiếu thốn. Ví như một cuộn chỉ được tung ra sẽ được kéo dài đến mức độ nào đó. Cũng như vậy, kẻ ngu và người hiền sau khi lưu chuyển luân hồi sẽ trừ tận khổ đau".

 

169. Itthaṃ kho me bhante Makkhali Gosālo sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ puṭṭho samāno saṃsārasuddhiṃ byākāsi. Seyyathāpi bhante ambaṃ vā puṭṭho labujaṃ byakareyya, labujaṃ vā puṭṭho ambaṃ byākareyya. Evameva kho me bhante Makkhali Gosālo sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ puṭṭho samāno saṃsārasuddhiṃ byākāsi. Tassa mayhaṃ bhante etadahosi “Kathaṃ hi nāma mādiso samaṇaṃ vā brāhmaṇaṃ vā vijite vasantaṃ apasādetabbaṃ maññeyyā”ti. So kho ahaṃ bhante Makkhalissa Gosālassa bhāsitaṃ neva abhinandiṃ nappaṭikkosiṃ, anabhinanditvā appaṭikkositvā anattamano anattamanavācaṃ anicchāretvā tameva vācaṃ anuggaṇhanto anikkujjanto uṭṭhāyāsanā pakkamiṃ.

21. Bạch Thế Tôn, khi được con hỏi kết quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, Makkhali Gosàla đă trả lời với thuyết luân hồi tịnh hóa. Bạch Thế Tôn, cũng như hỏi về trái xoài lại trả lời về trái mít, hoặc hỏi về trái mít lại trả lời về trái xoài. Cũng vậy, bạch Thế Tôn, khi được hỏi về kết quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, Makkhali Gosàla đă trả lời với thuyết luân hồi tịnh hóa. Bạch Thế Tôn, con liền nghĩ: "Làm sao một người như con, lại có thể làm một vị Sa-môn hay Bà-la-môn ở trong nước con không được vui ḷng? "V́ vậy, bạch Thế Tôn, con không tán thán cũng không cật nạn lời nói của Makkhali Gosàla; không tán thán, không cật nạn, dầu không măn nguyện cũng không thốt ra lời bất măn, không công nhận cũng không bác bỏ, con từ chỗ ngồi đứng dậy ra về.

 

Ajitakesakambalavāda

            170. Ekamidāhaṃ bhante samayaṃ yena Ajito Kesakambalo tenupasaṅkamiṃ, upasaṅkamitvā Ajitena Kesakambalena saddhiṃ sammodiṃ, sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdiṃ, ekamantaṃ nisinno kho ahaṃ bhante Ajitaṃ Kesakambalaṃ etadavocaṃ “Yathā nu kho imāni bho Ajita puthusippāyatanāni ‑pa‑. Sakkā nu kho bho Ajita evameva diṭṭheva dhamme sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ paññapetun’ti.

 

 

22. Bạch Thế Tôn, một thời con đến Ajita Kesakambàli (A-kỳ-đa-xí-xá-khâm-bà-la) khi đến nơi con nói lên những lời đón chào, chúc tụng thân hữu và xă giao với Ajita Kesakambàli , và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, con nói với Ajita Kesakambala: "Ngài Ajita Kesakambàli , cũng như các công nghệ chức nghiệp như điều tượng sư... (như trên)... Bạch Ngài, Ngài có thể chỉ cho biết kết quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn chăng?"

171. Evaṃ vutte bhante Ajito Kesakambalo maṃ etadavoca “Natthi mahārāja dinnaṃ, natthi yiṭṭhaṃ, natthi hutaṃ, natthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko, natthi ayaṃ loko, natthi paro loko (Paraloko - Syā), natthi mātā, natthi pitā, natthi sattā opapātikā, natthi loke samaṇabrāhmaṇā sammaggatā (Samaggatā - Ka; samaggagatā - Syā) sammāpaṭipannā, ye imañca lokaṃ parañca lokaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā pavedenti. Cātumahābhūtiko ayaṃ puriso, yadā kālaṃ karoti, pathavī pathavikāyaṃ anupeti anupagacchati, āpo āpokāyaṃ anupeti anupagacchati, tejo tejokāyaṃ anupeti anupagacchati, vāyo vāyokāyaṃ anupeti anupagacchati, ākāsaṃ indriyāni saṅkamanti, āsandipañcamā purisā mataṃ ādāya gacchanti, yāvāḷāhanā padāni paññāyanti, kāpotakāni aṭṭhīni bhavanti, bhassantā āhutiyo, dattupaññattaṃ yadidaṃ dānaṃ, tesaṃ tucchaṃ musā vilāpo, ye keci atthikavādaṃ vadanti, bāle ca paṇḍite ca kāyassa bhedā ucchijjanti vinassanti, na honti paraṃ maraṇā”ti.

23. Bạch Thế Tôn, khi được nói vậy, Ajita Kesakambàli đă nói với con: "Này Đại vương, không có bố thí, không có lễ hy sinh, không có tế tự, không có quả dị thục các nghiệp thiện ác, không có đời này, không có đời khác, không có mẹ, không có cha, không có loại hóa sanh, ở đời không có những vị Sa-môn, những vị Bà-la-môn chánh hướng, chánh hạnh, đă tự ḿnh chứng tri giác ngộ đời này đời khác và truyền dạy lại. Con người này do bốn đại hợp thành, khi mệnh chung, địa đại trở về trả lại cho địa giới, thủy đại trở về trả lại cho thủy giới, hỏa đại trở về trả lại cho hỏa giới, phong đại trở về trả lại cho phong giới, các căn nhập vào hư không. Bốn người gánh quan tài với người nằm trong quan tài là năm, gánh người chết mang đi đến chỗ hỏa táng, thốt ra những lời tán tụng, các xương trắng như màu bồ câu và những vật cúng dường trở thành tro bụi, chỉ có người ngu mới tán dương sự bố thí, lời nói của chúng trống không, giả dối, khi chúng chấp thuyết có sự sống. Kẻ ngu cũng như người hiền, sau khi thân hoại mạng chung sẽ đoạn diệt, tiêu thất, không c̣n tồn tại sau khi chết. "

 

172. Itthaṃ kho me bhante Ajito Kesakambalo sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ puṭṭho samāno ucchedaṃ byākāsi. Seyyathāpi bhante ambaṃ vā puṭṭho labujaṃ byākareyya, labujaṃ vā puṭṭho ambaṃ byākareyya. Evameva kho me bhante Ajito Kesakambalo sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ puṭṭho samāno ucchedaṃ byākāsi. Tassa mayhaṃ bhante etadahosi “Kathaṃ hi nāma mādiso samaṇaṃ vā brāhmaṇaṃ vā vijite vasantaṃ apasādetabbaṃ maññeyyā”ti. So kho ahaṃ bhante Ajitassa Kesakambalassa bhāsitaṃ neva abhinandiṃ nappaṭikkosiṃ, anabhinanditvā appaṭikkositvā anattamano anattamanavācaṃ anicchāretvā tameva vācaṃ anuggaṇhanto anikkujjanto uṭṭhāyāsanā pakkamiṃ.

24. Bạch Thế Tôn, khi được con hỏi kết quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, Ajita Kesakambàli đă trả lời với thuyết đoạn diệt. Bạch Thế Tôn, cũng như hỏi về trái mít lại trả lời về trái xoài, hỏi về trái xoài lại trả lời về trái mít. Cũng vậy, bạch Thế Tôn, khi được hỏi về kết quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, Ajita Kesakambàli đă trả lời với thuyết đoạn diệt. Bạch Thế Tôn, con liền nghĩ: "Làm sao một người như con lại có thể làm một vị Sa-môn hay Bà-la-môn ở trong nước con không được vui ḷng". V́ vậy bạch Thế Tôn, con không tán thán, cũng không cật nạn lời nói của Ajita Kesakambàli . Không tán thán, không cật nạn, dầu không măn nguyện cũng không thốt ra lời bất măn, không công nhận cũng không bác bỏ, con từ chỗ ngồi đứng dậy ra về.

 

Pakudhakaccāyanavāda

173. Ekamidāhaṃ bhante samayaṃ yena Pakudho Kaccāyano tenupasaṅkamiṃ, upasaṅkamitvā Pakudhena Kaccāyanena saddhiṃ sammodiṃ, sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdiṃ, ekamantaṃ nisinno kho ahaṃ bhante Pakudhaṃ Kaccāyanaṃ etadavocaṃ “Yathā nu kho imāni bho Kaccāyana puthusippāyatanāni ‑pa‑. Sakkā nu kho bho Kaccāyana evameva diṭṭheva dhamme sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ paññapetun”ti.

 

 

25. Bạch Thế Tôn, một thời con đến Pakudha Kaccayana (Bà-phù-đả-ca-chiên-diên). Khi đến nơi con nói lên những lời đón chào, chúc tụng thân hữu và xă giao với Pakudha Kaccàyana và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, con nói với Pakudha Kaccayana: "Ngài Pakudha Kaccayana, cũng như các công nghệ chức nghiệp, như điều tượng sư... (như trên)... Bạch Ngài, Ngài có thể cho biết kết quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn chăng?"

174. Evaṃ vutte bhante Pakudho Kaccāyano maṃ etadavoca “Sattime mahārāja kāyā akaṭā akaṭavidhā animmitā animmātā vañjhā kūṭaṭṭhā esikaṭṭhāyiṭṭhitā, te na iñjanti, na vipariṇāmenti, na aññamaññaṃ byābādhenti, nālaṃ aññamaññassa sukhāya vā dukkhāya vā sukhadukkhāya vā. Katame satta, pathavikāyo, āpokāyo, tejokāyo, vāyokāyo, sukhe, dukkhe, jīve sattame. Ime satta kāyā akaṭā akaṭavidhā animmitā animmātā vañjhā kūṭaṭṭhā esikaṭṭhāyiṭṭhitā, te na iñjanti, na vipariṇāmenti, na aññamaññaṃ byābādhenti, nālaṃ aññamaññassa sukhāya vā dukkhāya vā sukhadukkhāya vā. Tattha natthi hantā vā ghātetā vā, sotā vā sāvetā vā, viññātā vā viññāpetā vā, yopi tiṇhena satthena sīsaṃ chindati, na koci kiñci (Kañci - Kaṃ) jīvitā voropeti, sattannaṃ tveva (Sattannaṃ yeva - Sī, Syā, Kaṃ, I) kāyānamantarena satthaṃ vivaramanupatatī”ti.

 

26. Bạch Thế Tôn, khi được nói vậy, Pakudha Kaccàyana nói với con: "Này Đại vương, có bảy thân không bị làm ra, không làm ra, không bị sáng tạo, không sáng tạo, không sanh sản, thường tại như đỉnh núi, đứng thẳng như trụ đá. Chúng bất động không chuyển biến, không xâm lăng nhau. Chúng không ảnh hưởng đến lạc hay khổ với nhau hoặc cả khổ và lạc. Bảy thân ấy là ǵ? Địa thân, thủy thân, hỏa thân, phong thân, khổ, lạc và thứ bảy là mạng. Bảy thân này khômg bị làm ra, không làm ra, không bị sáng tạo, không sáng tạo, không sanh sản, thường tại như đỉnh núi, đứng thẳng như trụ đá. Chúng bất động không chuyển biến, không xâm lăng, chúng không ảnh hưởng đến lạc hay khổ với nhau, hoặc cả khổ và lạc. Ở đây không có người giết hại, hoặc có người bị giết hại, người nghe hoặc người nói, người biết hoặc người khiến cho biết. Khi một ai dùng lưỡi kiếm sắc bén chém đầu, thời không có ai tước đoạt sanh mạng của ai cả, lưỡi kiếm chỉ rơi vào giữa bảy thân mà thôi".

 

175. Itthaṃ kho me bhante Pakudho Kaccāyano sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ puṭṭho samāno aññena aññaṃ byākāsi. Seyyathāpi bhante ambaṃ vā puṭṭho labujaṃ byākareyya, labujaṃ vā puṭṭho ambaṃ byākareyya. Evameva kho me bhante Pakudho Kaccāyano sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ puṭṭho samāno aññena aññaṃ byākāsi. Tassa mayhaṃ bhante etadahosi “Kathaṃ hi nāma mādiso samaṇaṃ vā brāhmaṇaṃ vā vijite vasantaṃ apasādetabbaṃ maññeyyā”ti. So kho ahaṃ bhante Pakudhassa Kaccāyanassa bhāsitaṃ neva abhinandiṃ nappaṭikkosiṃ, anabhinanditvā appaṭikkositvā anattamano anattamanavācaṃ anicchāretvā tameva vācaṃ anuggaṇhanto anikkujjanto uṭṭhāyāsanā pakkamiṃ.

 

27. Bạch Thế Tôn, khi được con hỏi về kết quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, Pakudha Kaccàyana đă trả lời một việc khác với một quan điểm khác. Bạch Thế Tôn, cũng như hỏi về trái xoài lại trả lời về trái mít, hoặc hỏi về trái mít lại trả lời về trái xoài. Cũng vậy, Bạch Thế Tôn, khi được hỏi về kết quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, Pakudha Kaccayana đă trả lời một việc khác với một quan điểm khác. Bạch Thế Tôn, con liền nghĩ: "Làm sao một người như con lại có thể làm một vị Sa-môn, hay Bà-la-môn ở trong nước con không được vui ḷng". V́ vậy, bạch Thế Tôn, con không tán thán, không cật nạn, bỏ lời nói của Pakudha Kaccayana. Không tán thán, không cật nạn, dầu không măn nguyện, cũng không thốt ra lời bất măn, không công nhận cũng không bác bỏ, con từ chỗ ngồi và đứng dậy ra về.

 

Nigaṇṭhanāṭaputtavāda

176. Ekamidāhaṃ bhante samayaṃ yena Nigaṇṭho Nāṭaputto tenupasaṅkamiṃ, upasaṅkamitvā Nigaṇṭhena Nāṭaputtena saddhiṃ sammodiṃ, sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdiṃ, ekamantaṃ nisinno kho ahaṃ bhante Nigaṇṭhaṃ Nāṭaputtaṃ etadavocaṃ “Yathā nu kho imāni bho aggivessana puthusippāyatanāni ‑pa‑. Sakkā nu kho bho aggivessana evameva diṭṭheva dhamme sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ paññapetun”ti.

 

 

28. Bạch Thế Tôn, một thời con đến Nigantha Nàtaputta (Ni-kiền-tử). Khi đến nơi, con nói lên những lời đón chào, chúc tụng thân hữu và xă giao với Nigantha Nàtaputta và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, con nói với Nigantha Nàtaputta: "Ngài Aggivessana, các công nghệ chức nghiệp như điều tượng sư, ... (như trên) ... Bạch Ngài, Ngài có thể cho biết kết quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn ?"

177. Evaṃ vutte bhante Nigaṇṭho Nāṭaputto maṃ etadavoca “Idha mahārāja Nigaṇṭho cātuyāmasaṃvarasaṃvuto hoti. Kathañca mahārāja Nigaṇṭho cātuyāmasaṃvarasaṃvuto hoti. Idha mahārāja Nigaṇṭho sabbavārivārito ca hoti, sabbavāriyutto ca, sabbavāridhuto ca, sabbavāriphuṭo ca. Evaṃ kho mahārāja Nigaṇṭho cātuyāmasaṃvarasaṃvuto hoti, yato kho mahārāja Nigaṇṭho evaṃ cātuyāmasaṃvarasaṃvuto hoti. Ayaṃ vuccati mahārāja Nigaṇṭho (Nigaṇṭho nāṭaputto - Syā, Ka) gatatto ca yatatto ca ṭhitatto cā”ti.

29. Bạch Thế Tôn, khi được hỏi vậy, Nigantha Nàtaputta nói với con: "Này Đại vương, một người Nigantha (Ni kiền tử) sống chế ngự bởi bốn loại cấm giới. Này Đại vương, thế nào là một người Nigantha sống chế ngự bởi bốn loại cấm giới? Này Đại vương, một Nigantha sống ǵn giữ đối với tất cả loại nước, ǵn giữ đối với mọi ác pháp, sống tẩy sạch tất cả ác pháp và sống với ư chí ǵn giữ đối với tất cả ác pháp. Này Đại vương, như vậy một Nigantha sống chế ngự bởi bốn loại cấm giới. Này Đại vương, v́ một Nigantha sống chế ngự bởi bốn loại cấm giới, nên vị ấy được gọi là Gotatto (một vị đă đi đến đích), Yatatto (một vị đă điều phục tự tâm) và Thitatto (một vị đă an trú được tự tâm)".

 

178. Itthaṃ kho me bhante Nigaṇṭho Nāṭaputto sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ puṭṭho samāno cātuyāmasaṃvaraṃ byākāsi. Seyyathāpi bhante ambaṃ vā puṭṭho labujaṃ byākareyya, labujaṃ vā puṭṭho ambaṃ byākareyya. Evameva kho me bhante Nigaṇṭho Nāṭaputto sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ puṭṭho samāno cātuyāmasaṃvaraṃ byākāsi. Tassa mayhaṃ bhante etadahosi “Kathaṃ hi nāma mādiso samaṇaṃ vā brāhmaṇaṃ vā vijite vasantaṃ apasādetabbaṃ maññeyyā”ti. So kho ahaṃ bhante Nigaṇṭhassa Nāṭaputtassa bhāsitaṃ neva abhinandiṃ nappaṭikkosiṃ, anabhinanditvā appaṭikkositvā anattamano anattamanavācaṃ anicchāretvā tameva vācaṃ anuggaṇhanto anikkujjanto uṭṭhāyāsanā pakkamiṃ.

 

30. Bạch Thế Tôn, khi được con hỏi đến kết quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, Nigantha Nàtaputta đă trả lời với sự chế ngự bởi bốn loại cấm giới. Bạch Thế Tôn, cũng như hỏi về trái xoài lại trả lời về trái mít, hoặc hỏi về trái mít lại trả lời về trái xoài. Cũng vậy, bạch Thế Tôn, khi được hỏi về kết quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, Nigantha Nàtaputta đă trả lời với sự chế ngự bởi bốn cấm giới. Bạch Thế Tôn, con liền nghĩ: "Làm sao một người như con lại có thể làm một vị Sa-môn hay Bà-la-môn ở trong nước con không được vui ḷng". V́ vậy, bạch Thế Tôn, con không tán thán, cũng không cật nạn lời nói của Nigantha Nàtaputta. Không tán thán không cật nạn, dù không măn nguyện, cũng không thốt ra lời bất măn, không công nhận cũng không bác bỏ, con từ chỗ ngồi đứng dậy ra về.

 

Sañcayabelaṭṭhaputtavāda

179. Ekamidāhaṃ bhante samayaṃ yena Sañcayo Belaṭṭhaputto tenupasaṅkamiṃ, upasaṅkamitvā Sañcayena Belaṭṭhaputtena saddhiṃ sammodiṃ, sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdiṃ, ekamantaṃ nisinno kho ahaṃ bhante Sañcayaṃ Belaṭṭhaputtaṃ etadavocaṃ “Yathā nu kho imāni bho Sañcaya puthusippāyatanāni ‑pa‑. Sakkā nu kho bho Sañcaya evameva diṭṭheva dhamme sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ paññapetun”ti.

 

 

31. Bạch Thế Tôn, một hôm con đến Sanjaya Belatthiputta (Tán-nhă-di-Tỳ-la-lê-phất). Khi đến nơi, con nói lên những lời đón chào chúc tụng thân hữu và xă giao với Sanjaya Belatthiputta và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, con nói với Sanjaya Belatthiputta: "Ngài Sanjaya, các công nghệ chức nghiệp như điều tượng sư... (như trên)... Bạch Ngài, Ngài có thể cho biết kết quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn chăng?"

180. Evaṃ vutte bhante Sañcayo Belaṭṭhaputto maṃ etadavoca “Atthi paro lokoti iti ce maṃ pucchasi, atthi paro lokoti iti ce me assa, atthi paro lokoti iti te naṃ byākareyyaṃ, evantipi me no, tathātipi me no, aññathātipi me no, notipi me no, no notipi me no. Natthi paro loko ‑pa‑. Atthi ca natthi ca paro loko ‑pa‑. Nevatthi na natthi paro loko ‑pa‑. Atthi sattā opapātikā ‑pa‑. Natthi sattā opapātikā ‑pa‑. Atthi ca natthi ca sattā opapātikā ‑pa‑. Nevatthi na natthi sattā opapātikā ‑pa‑. Atthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko ‑pa‑. Natthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko ‑pa‑. Atthi ca natthi ca sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko ‑pa‑. Nevatthi na natthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko ‑pa‑. Hoti tathāgato paraṃ maraṇā ‑pa‑. Na hoti tathāgato paraṃ maraṇā ‑pa‑. Hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā ‑pa‑. Neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇāti iti ce maṃ pucchasi, neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇāti iti ce me assa, neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇāti iti te naṃ byākareyyaṃ, evantipi me no, tathātipi me no, aññathātipi me no, notipi me no, no notipi me no”ti.

 

32. Bạch Thế Tôn, khi được nói vậy, Sanjaya Belatthiputta đă trả lời với con: "Nếu anh hỏi: "Có một thế giới khác hay không?" Nếu tôi nghĩ: "Có một thế giới khác", tôi có thể trả lời với anh: "Có một thế giới khác". Nhưng tôi không nói là như vậy. Tôi không nói là như kia. Tôi không nói là khác như thế. Tôi không nói là không phải như thế. Tôi không nói là không không phải như thế. Nếu anh hỏi tôi: "Không có một thế giới khác phải không?" Nếu tôi nghĩ: "Không có một thế giới khác", tôi có thể trả lời với anh: "Không có một thế giới khác". Nhưng tôi không nói là như vậy. Tôi không nói là như kia. Tôi không nói là khác như thế. Tôi không nói là không phải như thế. Tôi không nói là không không phải như thế. Nếu anh hỏi tôi: "Không có một thế giới khác phải không?" (... như trên... ) "Cũng có và cũng không có một thế giới khác?", "Cũng không có và cũng không không có một thế giới khác?", "Có loại hữu t́nh hóa sanh?", "Không có loại hữu t́nh hóa sanh?", "Cũng có và cũng không có loại hữu t́nh hóa sanh?" "Cũng không có và cũng không không có loại hữu t́nh hóa sanh?", "Có kết quả dị thục của các nghiệp thiện và ác?", "Không có kết quả dị thục của những nghiệp thiện và ác?", "Cũng có và cũng không có kết quả dị thục của những nghiệp thiện và ác?", "Cũng không có và cũng không không có kết quả dị thục của những nghiệp thiện và ác?", "Như Lai có tồn tại sau khi chết?", "Như Lai không có tồn tại sau khi chết?", "Như Lai có và không có tồn tại sau khi chết?", "Như Lai không có và cũng không không có tồn tại sau khi chết?". Anh hỏi tôi như vậy. Nếu tôi nghĩ : "Như Lai không có và cũng không không có tồn tại sau khi chết". Tôi có thể trả lời : "Như Lai không có và cũng không không có tồn tại sau khi chết". Nhưng tôi không nói là như vậy. Tôi không nói là như kia. Tôi không nói là khác như thế. Tôi không nói là không phải như thế. Tôi không nói là không không phải như thế."

 

181. Itthaṃ kho me bhante Sañcayo Belaṭṭhaputto sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ puṭṭho samāno vikkhepaṃ byākāsi. Seyyathāpi bhante ambaṃ vā puṭṭho labujaṃ byākareyya, labujaṃ vā puṭṭho ambaṃ byākareyya. Evameva kho me bhante Sañcayo Belaṭṭhaputto sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ puṭṭho samāno vikkhepaṃ byākāsi. Tassa mayhaṃ bhante etadahosi “Ayañca imesaṃ samaṇabrāhmaṇānaṃ sabbabālo sabbamūḷho, kathaṃ hi nāma sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ puṭṭho samāno vikkhepaṃ byākarissatī”ti. Tassa mayhaṃ bhante etadahosi “Kathaṃ hi nāma mādiso samaṇaṃ vā brāhmaṇaṃ vā vijite vasantaṃ apasādetabbaṃ maññeyyā”ti. So kho ahaṃ bhante Sañcayassa Belaṭṭhaputtassa bhāsitaṃ neva abhinandiṃ nappaṭikkosiṃ, anabhinanditvā appaṭikkositvā anattamano anattamanavācaṃ anicchāretvā tameva vācaṃ anuggaṇhanto anikkujjanto uṭṭhāyāsanā pakkamiṃ.

 

33. Bạch Thế Tôn, khi được con hỏi kết quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, Sanjaya Belatthiputta đă trả lời với Ngụy biện luận. Bạch Thế Tôn, cũng như hỏi về trái xoài lại trả lời về trái mít , hoặc hỏi trái mít lại trả lời trái xoài . Cũng vậy, bạch Thế Tôn, khi được hỏi về kết quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, Sanjaya Belatthiputta đă trả lời với Ngụy biện luận. Bạch Thế Tôn, con liền nghĩ: "Làm sao một người như con, lại có thể làm một vị Sa-môn hay Bà-la-môn ở trong nước con không được vui ḷng". V́ vậy, Bạch Thế Tôn, con không tán thán cũng không cật nạn lời nói của Sanjaya Belatthiputta. Không tán thán, không cật nạn, dầu không măn nguyện, cũng không thốt ra lời bất măn. Không công nhận cũng không bác bỏ, con từ chỗ ngồi đứng dậy ra về.

Paṭhamasandiṭṭhikasāmaññaphala

182. Sohaṃ bhante Bhagavantampi pucchāmi “Yathā nu kho imāni bhante puthusippāyatanāni. Seyyathidaṃ, hatthārohā assārohā rathikā dhanuggahā celakā calakā piṇḍadāyakā uggā rājaputtā pakkhandino mahānāgā sūrā cammayodhino dāsikaputtā āḷārikā kappakā nhāpakā sūdā mālakārā rajakā pesakārā naḷakārā kumbhakārā gaṇakā muddikā, yāni vā panaññānipi evaṃgatāni puthusippāyatanāni, te diṭṭheva dhamme sandiṭṭhikaṃ sippaphalaṃ upajīvanti, te tena attānaṃ sukhenti pīṇenti, mātāpitaro sukhenti pīṇenti, puttadāraṃ sukhenti pīṇenti, mittāmacce sukhenti pīṇenti, samaṇabrāhmaṇesu uddhaggikaṃ dakkhiṇaṃ patiṭṭhapenti sovaggikaṃ sukhavipākaṃ saggasaṃvattanikaṃ. Sakkā nu kho bhante evameva diṭṭheva dhamme sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ paññapetun”ti.

 

 

34. Vậy nên bạch Thế Tôn, con cũng hỏi Thế Tôn. bạch Thế Tôn, cũng như các công nghệ chức nghiệp. Như điều tượng sư, điều mă sư, xa thuật sư, cung thuật sư, quân kỳ binh, nguyên soái, chiến sĩ, thượng sĩ quan, thám tử, dũng sĩ can đảm như voi chúa, anh hùng, trang giáp binh, nô lệ xuất thân, hỏa đầu quân, thợ hớt tóc, người hầu tắm, thợ làm bánh, nhà ṿng hoa, thợ giặt, thợ dệt, nhà làm thúng rổ, thợ đồ gốm, nhà toán số, nhà ấn bản, các công nghệ chức nghiệp khác. Chúng hưởng được kết quả thiết thực hiện tại công nghệ chức nghiệp của chúng. Chúng giúp cho tự thân được sống an lạc, hạnh phúc. Chúng giúp cho cha mẹ được sống an lạc, hạnh phúc. Chúng giúp cho cha mẹ được sống an lạc hạnh phúc. Chúng giúp cho bạn bè được sống an lạc hạnh phúc. Chúng dâng các vật cúng dường cho Sa-môn, Bà-la-môn, sự cúng dường này có ảnh hưởng đến đời sau, liên hệ đến thiên giới, thọ hưởng phước báo an lạc, thác sanh lên cơi trời. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có thể cho biết kết quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn chăng?

 

183. Sakkā mahārāja, tena hi mahārāja taññevettha paṭipucchissāmi, yathā te khameyya, tathā taṃ byākareyyāsi.

- Đại vương có thể được. Này Đại vương, ta sẽ hỏi Đại vương về vấn đề này. Đại vương hăy trả lời tùy theo ư muốn của Đại vương.

 

Taṃ kiṃ maññasi mahārāja. Idha te assa puriso dāso kammakāro (Kammakaro - Sī, Syā, Kaṃ, I) pubbuṭṭhāyī pacchānipātī kiṃkārapaṭissāvī manāpacārī piyavādī mukhullokako (Mukhullokiko - Syā, Kaṃ, Ka). Tassa evamassa “Acchariyaṃ vata bho abbhutaṃ vata bho puññānaṃ gati puññānaṃ vipāko, ayaṃ hi rājā Māgadho Ajātasattu Vedehiputto manusso, ahampi manusso, ayaṃ hi rājā Māgadho Ajātasattu Vedehiputto pañcahi kāmaguṇehi samappito samaṅgībhūto paricāreti devo maññe, ahaṃ panamhissa dāso kammakāro pubbuṭṭhāyī pacchānipātī kiṃkārapaṭissāvī manāpacārī piyavādī mukhullokako, so vatassāhaṃ puññāni kareyyaṃ, yaṃnūnāhaṃ kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajeyyan”ti. So aparena samayena kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajeyya, so evaṃ pabbajito samāno kāyena saṃvuto vihareyya, vācāya saṃvuto vihareyya, manasā saṃvuto vihareyya, ghāsacchādanaparamatāya santuṭṭho, abhirato paviveke. Taṃ ce te purisā evamāroceyyuṃ “Yagghe deva jāneyyāsi, yo te so puriso (Yo te puriso - Sī, Ka) dāso kammakāro pubbuṭṭhāyī pacchānipātī kiṃ kārapaṭissāvī manāpacārī piyavādī mukhullokako, so deva kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajito, so evaṃ pabbajito samāno kāyena saṃvuto viharati, vācāya saṃvuto viharati, manasā saṃvuto viharati, ghāsacchādanaparamatāya santuṭṭho, abhirato paviveke”ti. Api nu tvaṃ evaṃ vadeyyāsi “Etu me bho so puriso, punadeva hotu dāso kammakāro pubbuṭṭhāyī pacchānipātī kiṃ kārapaṭissāvī manāpacārī piyavādī mukhullokako”ti.

 

35. Đại vương nghĩ sao? Nếu Đại vương có một người nô bộc, dậy sớm, thức khuya, thi hành mọi mệnh lệnh của chủ, làm đẹp ḷng mọi người, lời nói kính ái, chú ư từng nét mặt (của Đại vương). Người ấy nghĩ: "Thật hy hữu thay! Thật kỳ diệu thay quả vị thác sanh của các công đức, quả dị thục của các công đức. Đức vua Ajàtasattu, con của bà Videhi của nước Magadha, là người, tôi đây là người. Vị vua Ajàtasattu con bà Videhi, của nước Magadha, sống tận hưởng đầy đủ năm món dục lạc, tôi nghĩ không khác ǵ vị thiên thần, c̣n tôi là người nô bộc, làm mọi công việc, dậy sớm, thức khuya, thi hành mọi mệnh lệnh của chủ, làm đẹp ḷng mọi người, lời nói kính ái, chú ư từng nét mặt (của vua). Vậy ta hăy làm các công đức như vua kia, ta hăy cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà sa, từ bỏ gia đ́nh xuất gia tu đạo". Và người nô lệ ấy, một thời khác, cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà sa, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh, xuất gia tu đạo. Sau khi xuất gia như vậy, người ấy sống chế ngự thân, sống chế ngự lời nói, sống chế ngự ư nghĩ, bằng ḷng với nhu cầu tối thiểu về ăn uống, y áo, hoan hỉ sống an tịnh. Nếu những người của Đại vương đến tâu với Đại vương. "Đại vương có biết chăng? Có người nô bộc của Đại vương, làm mọi công việc, dậy sớm, thức khuya, thi hành mọi mệnh lệnh của chủ, làm đẹp ḷng mọi người, lời nói kính ái, chú ư từng nét mặt (của Đại vương). Tâu Đại vương, người ấy đă cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà sa, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh, xuất gia tu đạo. Sau khi xuất gia như vậy, người ấy sống chế ngự thân, chế ngự lời nói, chế ngự ư nghĩ, bằng ḷng với nhu cầu tối thiểu về ăn uống, y áo, hoan hỷ sống trong an tịnh". Này Đại vương, Đại vương có nói như sau chăng?: "Người ấy hăy lại với ta, hăy làm lại người nô bộc, làm mọi công việc, dậy sớm, thức khuya, thi hành mọi mệnh lệnh của chủ, làm đẹp ḷng mọi người, lời nói kính ái chú ư từng nét mặt?"

 

184. Nohetaṃ bhante, atha kho naṃ mayameva abhivādeyyāmapi paccuṭṭheyyāmapi āsanenapi nimanteyyāma abhinimanteyyāmapi naṃ cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānappaccayabhesajjaparikkhārehi, dhammikampissa rakkhāvaraṇaguttiṃ saṃvidaheyyāmāti.

 

36. - Bạch Thế Tôn, không như vậy. Trái lại chúng con kính lễ người ấy, đứng dậy trước người ấy, mời người ấy ngồi xuống ghế, cúng dường người ấy các dụng cụ như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, thuốc men trị bệnh và chúng con sẽ ra lệnh để bảo vệ, che chở người ấy đúng theo luật pháp.

185. Taṃ kiṃ maññasi mahārāja. Yadi evaṃ sante hoti vā sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ no vāti.

Addhā kho bhante evaṃ sante hoti sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalanti.

Idaṃ kho te mahārāja mayā paṭhamaṃ diṭṭheva dhamme sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ paññattanti.

 

- Này Đại vương, Đại vương nghĩ thế nào? Nếu quả như vậy, th́ đó có phải chăng là kết quả thiết thực hiện tại hạnh Sa-môn?

- Bạch Thế Tôn, như vậy chính là kết quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn.

- Này Đại vương đó là kết quả thiết thực hiện tại thứ nhất của hạnh Sa-môn mà Ta đă tŕnh bày.

 

Dutiyasandiṭṭhikasāmaññaphala

186. Sakkā pana bhante aññampi evameva diṭṭheva dhamme sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ paññapetunti.

 

 

37. - Bạch Thế Tôn, có thể cho biết một kết quả thiết thực hiện tại khác hơn nữa của hạnh Sa-môn?

Sakkā mahārāja, tena hi mahārāja taññevettha paṭipucchissāmi, yathā te khameyya, tathā naṃ byākareyyāsi. Taṃ kiṃ maññasi mahārāja. Idha te assa puriso kassako gahapatiko karakārako rāsivaḍḍhako. Tassa evamassa “Acchariyaṃ vata bho abbhutaṃ vata bho puññānaṃ gati puññānaṃ vipāko, ayaṃ hi rājā Māgadho Ajātasattu Vedehiputto manusso, ahampi manusso, ayaṃ hi rājā Māgadho Ajātasattu Vedehiputto pañcahi kāmaguṇehi samappito samaṅgībhūto paricāreti devo maññe, ahaṃ panamhissa kassako gahapatiko karakārako rāsivaḍḍhako, so vatassāhaṃ puññāni kareyyaṃ, yaṃnūnāhaṃ kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vattāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajeyyan”ti. So aparena samayena appaṃ vā bhogakkhandhaṃ pahāya mahantaṃ vā bhogakkhandhaṃ pahāya appaṃ vā ñātiparivaṭṭaṃ pahāya mahantaṃ vā ñātiparivaṭṭaṃ pahāya kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajeyya, so evaṃ pabbajito samāno kāyena saṃvuto vihareyya, vācāya saṃvuto vihareyya, manasā saṃvuto vihareyya, ghāsacchādanaparamatāya santuṭṭho, abhirato paviveke. Taṃ ce te purisā evamāroceyyuṃ “Yagghe deva jāneyyāsi, yo te so puriso (Yo te puriso - Sī) kassako gahapatiko karakārako rāsivaḍḍhako, so deva kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajito, so evaṃ pabbajito samāno kāyena saṃvuto viharati, vācāya saṃvuto viharati, manasā saṃvuto viharati, ghāsacchādanaparamatāya santuṭṭho, abhirato paviveke”ti. Api nu tvaṃ evaṃ vadeyyāsi “Etu me bho so puriso, punadeva hotu kassako gahapatiko karakārako rāsivaḍḍhako”ti.

 

- Này Đại vương, có thể được. Này Đại vương. Ta sẽ hỏi Đại vương về vấn đề này. Đại vương hăy trả lời tùy theo ư muốn của Đại vương. Đại vương nghĩ sao? Nếu Đại vương có một người nông phu, gia chủ, nạp thuế má, làm giàu công khố. Người ấy nghĩ: "Thật hy hữu thay! Thật kỳ diệu thay quả vị thác sanh của các công đức, quả vị thục của các công đức. Vị vua Ajàtasattu, con của bà Videhi, nước Magadha, là người, tôi cũng là người. Vị vua Ajàtasattu, con bà Videhi nước Magadha, sống tận hưởng đầy đủ năm món dục lạc, tôi nghĩ không khác ǵ vị thiên thần. C̣n tôi là người nông phu, gia chủ, nạp thuế má, làm giàu công khố. Vậy ta hăy làm các công đức như vua kia. Ta hăy cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà sa, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh, xuất gia tu đạo". Và người nông phu ấy, một thời khác, cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà sa, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh, xuất gia tu đạo. Sau khi xuất gia như vậy, người ấy sống chế ngự thân, chế ngự lời nói, chế ngự ư nghĩ, bằng ḷng với nhu cầu tối thiểu về ăn uống, y áo, hoan hỷ sống an tịnh. Nếu những người của Đại vương đến tâu với Đại vương: "Đại vương có biết chăng? Có người nông phu của Đại vương, người gia chủ, nạp thuế má, làm giàu công khố. Tâu Đại vương, người ấy đă cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà sa, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh, xuất gia tu đạo. Sau khi xuất gia như vậy, người ấy sống chế ngự thân, chế ngự lời nói, chế ngự ư nghĩ, bằng ḷng với nhu cầu tối thiểu về ăn uống, y áo, hoan hỷ sống an tịnh". Này Đại vương, Đại vương có nói: "Người hăy đến lại với ta, hăy làm lại người nông phu, gia chủ, nạp thuế má, làm giàu công khố"?

187. Nohetaṃ bhante, atha kho naṃ mayameva abhivādeyyāmapi paccuṭṭheyyāmapi āsanenapi nimanteyyāma abhinimanteyyāmapi naṃ cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānappaccayabhesajjaparikkhārehi, dhammikampissa rakkhāvaraṇāguttiṃ saṃvidaheyyāmāti.

 

38. - Bạch Thế Tôn, không như vậy. Trái lại chúng con kính nể người ấy, đứng dậy trước người ấy, mời người ấy ngồi xuống ghế, cúng dường người ấy các dụng cụ như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, thuốc men trị bịnh. Và chúng con sẽ ra lệnh để bảo vệ, che chở người ấy đúng theo luật pháp.

188. Taṃ kiṃ maññasi mahārāja. Yadi evaṃ sante hoti vā sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ no vāti.

Addhā kho bhante evaṃ sante hoti sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalanti.

Idaṃ kho te mahārāja mayā dutiyaṃ diṭṭheva dhamme sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ paññattanti.

 

- Này Đại vương, Đại vương nghĩ thế nào? Nếu quả như vậy thời đó có phải là kết quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn chăng?

- Bạch Thế Tôn, như vậy chính là kết quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn.

- Này Đại vương, đó là kết quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, mà Ta tŕnh bày.

 

Paṇītatarasāmaññaphala

189. Sakkā pana bhante aññampi diṭṭheva dhamme sandiṭṭhikaṃ sāmaññaphalaṃ paññapetuṃ imehi sandiṭṭhikehi sāmaññaphalehi abhikkantatarañca paṇītatarañcāti.

 

 

39. Bạch Thế Tôn, có thể cho biết một kết quả thiết thực hiện tại khác nữa của hạnh Sa-môn, vi diệu hơn, thù thắng hơn những kết quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn vừa kể trên?

Sakkā mahārāja, tena hi mahārāja suṇohi sādhukaṃ manasi karohi bhāsissāmīti.

“Evaṃ bhante”ti kho rājā Māgadho Ajātasattu Vedehiputto Bhagavato paccassosi.

 

- Này Đại vương có thể được. Này Đại vương, hăy lóng tai nghe và khéo tác ư, Ta sẽ giảng.

- Vâng, Thế Tôn. Vua Ajàtasattu con bà Videhi vua xứ Magadha trả lời Thế Tôn. Thế Tôn nói:

 

190. Bhagavā etadavoca, idha mahārāja Tathāgato loke uppajjati Arahaṃ Sammāsambuddho Vijjācaraṇasampanno Sugato Lokavidū Anuttaro purisadammasārathi Satthā devamanussānaṃ Buddho Bhagavā, so imaṃ lokaṃ sadevakaṃ samārakaṃ sabrahmakaṃ sassamaṇabrāhmaṇiṃ pajaṃ sadevamanussaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā pavedeti, so dhammaṃ deseti ādikalyāṇaṃ majjhekalyāṇaṃ pariyosānakalyāṇaṃ sātthaṃ sabyañjanaṃ kevalaparipuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ pakāseti.

 

40. - Này Đại vương, nay ở đời, Như Lai xuất hiện là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Như Lai sau khi riêng tự chứng ngộ với thượng trí thế giới này với thiên giới, ma giới, phạm thiên giới, gồm cả thế giới này với Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên Nhơn, lại tuyên thuyết điều Ngài đă chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện đầy đủ văn nghĩa, Ngài truyền dạy phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh.

 

191. Taṃ dhammaṃ suṇāti gahapati vā gahapatiputto vā aññatarasmiṃ vā kule paccājāto, so taṃ dhammaṃ sutvā tathāgate saddhaṃ paṭilabhati, so tena saddhāpaṭilābhena samannāgato iti paṭisañcikkhati ‘Sambādho gharāvāso rajopatho, abbhokāso pabbajjā, nayidaṃ sukaraṃ agāraṃ ajjhāvasatā ekantaparipuṇṇaṃ ekantaparisuddhaṃ saṅkhalikhitaṃ brahmacariyaṃ carituṃ, yaṃnūnāhaṃ kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajeyyan’ti.

 

41. Người gia trưởng, hay con vị gia trưởng, hay một người sanh ở giai cấp (hạ tiện) nào nghe pháp ấy. Sau khi nghe pháp, người ấy sanh ḷng tín ngưỡng Như Lai. Khi có ḷng tín ngưỡng ấy, vị này suy nghĩ: "Đời sống gia đ́nh đầy những triền phược, con đường đầy những bụi đời. Đời sống xuất gia phóng khoáng như hư không. Thật rất khó cho một người sống ở gia đ́nh có thể sống theo phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia, từ bỏ gia đ́nh".

192. So aparena samayena appaṃ vā bhogakkhandhaṃ pahāya mahantaṃ vā bhogakkhandhaṃ pahāya appaṃ vā ñātiparivaṭṭaṃ pahāya mahantaṃ vā ñātiparivaṭṭaṃ pahāya kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajati.

 

Một thời gian sau, người ấy bỏ tài sản nhỏ hay tài sản lớn, bỏ bà con quyến thuộc nhỏ hay bà con quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, và xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh.

 

193. So evaṃ pabbajito samāno pātimokkhasaṃvarasaṃvuto viharati ācāragocarasampanno, aṇumattesu vajjesu bhayadassāvī, samādāya sikkhati sikkhāpadesu, kāyakammavacīkammena samannāgato kusalena, parisuddhājīvo sīlasampanno, indriyesu guttadvāro (Guttadvāro, bhojane mattaññū - Ka) satisampajaññena samannāgato santuṭṭho.

 

42. Khi đă xuất gia như vậy, vị ấy sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Pàtimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ tŕ và học tập trong giới học, thân nghiệp, ngữ nghiệp thanh tịnh. Sanh hoạt trong sạch giới hạnh cụ túc, thủ hộ các căn, chánh niệm tỉnh giác, và biết tri túc.

Cūḷasīla

194. Kathañca mahārāja bhikkhu sīlasampanno hoti. Idha mahārāja bhikkhu pāṇātipātaṃ pahāya pāṇātipātā paṭivirato hoti nihitadaṇḍo nihitasattho lajjī dayāpanno, sabbapāṇabhūtahitānukampī viharati. Idampissa hoti sīlasmiṃ.

 

 

43. Đại Vương! Thế nào là Tỷ-kheo giới hạnh cụ túc? Ở đây, này Đại Vương, Tỷ-kheo từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quư, có ḷng từ, sống thương xót đến tất cả hạnh phúc của chúng sanh và loài hữu t́nh. Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.

Adinnādānaṃ pahāya adinnādānā paṭivirato hoti dinnādāyī dinnapāṭikaṅkhī, athenena sucibhūtena attanā viharati. Idampissa hoti sīlasmiṃ.

 

Vị ấy từ bỏ lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho, chỉ lấy những vật đă cho, chỉ mong những vật đă cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp, như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.

Abrahmacariyaṃ pahāya brahmacārī hoti ārācārī virato methunā gāmadhammā. Idampissa hoti sīlasmiṃ.

 

 

Musāvādaṃ pahāya musāvādā paṭivirato hoti saccavādī saccasandho theto paccayiko avisaṃvādako lokassa. Idampissa hoti sīlasmiṃ.

 

44. Tỷ-kheo từ bỏ nói láo, tránh xa nói láo, nói những lời chân thật, y chỉ trên sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không lường gạt, không phản lại lời hứa đối với đời. Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.

Pisuṇaṃ vācaṃ pahāya pisuṇāya vācāya paṭivirato hoti, ito sutvā na amutra akkhātā imesaṃ bhedāya, amutra vā sutvā na imesaṃ akkhātā amūsaṃ bhedāya, iti bhinnānaṃ vā sandhātā, sahitānaṃ vā anuppadātā, samaggārāmo samaggarato samagganandī samaggakaraṇiṃ vācaṃ bhāsitā hoti. Idampissa hoti sīlasmiṃ.

 

Vị ấy từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều ǵ ở chỗ này, không đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ ở những người này; nghe điều ǵ ở chỗ kia, không đi nói với những người này để sanh chia rẽ ở những người kia. Như vậy Tỷ-kheo ấy sống ḥa hợp những kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ ḥa hợp, hoan hỷ trong ḥa hợp, thoải mái trong ḥa hợp, hân hoan trong ḥa hợp, nói những lời đưa đến ḥa hợp. Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.

 

Pharusaṃ vācaṃ pahāya pharusāya vācāya paṭivirato hoti, yā sā vācā nelā kaṇṇasukhā pemanīyā hadayaṅgamā porī bahujanakantā bahujanamanāpā, tathārūpiṃ vācaṃ bhāsitā hoti. Idampissa hoti sīlasmiṃ.

Vị ấy từ bỏ lời nói độc ác, tránh xa lời nói độc ác. Vị ấy nói những lời nói không lỗi lầm, đẹp tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhă, đẹp ḷng nhiều người. Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.

 

Samphappalāpaṃ pahāya samphappalāpā paṭivirato hoti kālavādī bhūtavādī atthavādī dhammavādī vinayavādī, nidhānavatiṃ vācaṃ bhāsitā hoti kālena sāpadesaṃ pariyantavatiṃ atthasañhitaṃ. Idampissa hoti sīlasmiṃ.

Vị ấy từ bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm, nói đúng thời, nói những lời chân thật, nói những lời có ư nghĩa, nói những lời về chánh pháp, nói những lời về luật, nói những lời đáng được ǵn giữ, những lời hợp thời, thuận lư, có mạch lạc hệ thống, có ích lợi. Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.

 

Bījagāmabhūtagāmasamārambhā paṭivirato hoti ‑pa‑. Ekabhattiko hoti rattūparato virato vikālabhojanā. Naccagītavāditavisūkadassanā paṭivirato hoti. Mālāgandhavilepanadhāraṇamaṇḍanavibhūsanaṭṭhānā paṭivirato hoti. Uccāsayanamahāsayanā paṭivirato hoti. Jātarūparajatapaṭiggahaṇā paṭivirato hoti. Āmakadhaññapaṭiggahaṇā paṭivirato hoti. Āmakamaṃsapaṭiggahaṇā paṭivirato hoti. Itthikumārikapaṭiggahaṇā paṭivirato hoti. Dāsidāsapaṭiggahaṇā paṭivirato hoti. Ajeḷakapaṭiggahaṇā paṭivirato hoti. Kukkuṭasūkarapaṭiggahaṇā paṭivirato hoti. Hatthigavassavaḷavapaṭiggahaṇā paṭivirato hoti. Khettavatthupaṭiggahaṇā paṭivirato hoti. Dūteyyapahiṇagamanānuyogā paṭivirato hoti. Kayavikkayā paṭivirato hoti. Tulākūṭakaṃsakūṭamānakūṭā paṭivirato hoti. Ukkoṭanavañcananikatisāciyogā paṭivirato hoti. Chedanavadhabandhanaviparāmosa-ālopasahasākārā paṭivirato hoti. Idampissa hoti sīlasmiṃ. 

Cūḷasīlaṃ niṭṭhitaṃ.

 

45. Vị ấy từ bỏ làm hại đến các hạt giống và các loại cây cỏ, dùng một ngày một bữa, không ăn ban đêm. Từ bỏ ăn phi thời. Từ bỏ đi xem múa, hát nhạc, diễn kịch. Từ bỏ trang sức bằng ṿng hoa, hương liệu, dầu thoa và các thời trang. Từ bỏ dùng giường cao và giường lớn. Từ bỏ nhận vàng và bạc. Từ bỏ nhận các hạt sống. Từ bỏ nhận thịt sống. Từ bỏ nhận đàn bà con gái. Từ bỏ nhận nô tỳ gái và trai. Từ bỏ nhận cừu và dê. Từ bỏ nhận gia cầm và heo. Từ bỏ nhận voi, ḅ, ngựa và ngựa cái. Từ bỏ nhận ruộng nương, đất đai. Từ bỏ nhận người môi giới hoặc tự ḿnh làm môi giới. Từ bỏ buôn bán. Từ bỏ các sự gian lận bằng cân, tiền bạc và đo lường. Từ bỏ các tà hạnh như hối lộ, gian trá, lừa đảo. Từ bỏ làm thương tổn, sát hại câu thúc, bứt đoạt, trộm cắp, cướp phá. Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật. (c̣n tiếp)

<Bài Kinh Trước>

<Trang Kế>

 

 | 02-01 | 02-02 |
| Mục lục Trường Bộ I | Mục lục Trường Bộ II | Mục lục Trường Bộ III |
 

<Đầu Trang>