XVII.
CATTĀḶĪSANIPĀTO - NHÓM BỐN MƯƠI KỆ NGÔN
(tiếp theo)
|
Nguồn: Tam Tạng
Pāli - Sinhala thuộc Buddha Jayanti Tripitaka Series (BJTS) |
Lời tiếng Việt:
Tỳ khưu Indacanda |
Trang 194: |
Trang 195:
|
▪ 4.
SAṄKHAPĀLAJĀTAKAṂ
|
▪ 4. BỔN
SANH LONG VƯƠNG SAṄKHAPĀLA
|
524. Chuyện long
vương Samkhapàla
(Tiền thân
Samkhapàla) |
3223. Ariyāvakāsopi pasannanetto
maññe bhavaṃ pabbajito kulamhā,
kathannu vittāni pahāya bhoge
pabbaji nikkhamma gharā sapañña.
|
3223. “Với tướng hảo quang minh, đôi mắt trong sáng, trẫm nghĩ
rằng đại đức đă xuất thân từ gia đ́nh danh giá. Thưa bậc có trí
tuệ, v́ lư do ǵ đại đức đă dứt bỏ các tài sản của cải, đă ĺa
khỏi gia đ́nh, và đă xuất gia?” |
1. Dáng điệu thanh tao, tướng đẹp
xinh,
Chắc con ḍng thế phiệt trâm anh,
Niềm vui thế tục sao rời bỏ,
Khoác áo tu, theo luật Thánh hành? |
3224. Sayaṃ vimānaṃ naradeva
disvā
mahānubhāvassa mahoragassa,
disvāna puññāna mahāvipākaṃ
saddhāyhaṃ pabbajitomhi rāja.
|
3224. “’Tâu vị chúa của con
người, sau khi tự nh́n nh́n thấy cung điện của Chúa Rồng có đại
năng lực, sau khi nh́n thấy quả thành tựu lớn lao của các việc
phước thiện, v́ đức tin tôi đă xuất gia, tâu bệ hạ.” |
2.Tâu Chúa công, ta nhớ rơ rành
Cung Long vương nọ, dáng oai linh,
Quả lành phát xuất từ thanh tịnh,
Nên nguyện khoác áo Thánh hành.
|
3225. Na kāmakāmā na bhayā na
dosā
vācaṃ musā pabbajitā bhaṇanti,
akkhāhi me pucchito etamatthaṃ
sutvāna me jāyihitippasādo.
|
3225. “Không v́ ham muốn dục vọng, không v́ sợ hăi, không v́ si
mê mà các bậc xuất gia nói lời dối trá. Được hỏi, xin đại đức
hăy giải thích điều ấy cho trẫm. Sau khi lắng nghe, niềm tịnh
tín sẽ sanh lên cho trẫm.” |
3. Chẳng mối hăi kinh hoặc dục,
sân
Khiến hiền nhân phải bỏ lời chân:
Nói cho ta rơ điều mong biết,
Tịnh tín tâm ta phát triển dần. |
3226. Vāṇijja raṭṭhādhipa
gacchamāno
pathe addasāsimhi milācaputte,
pavaḍḍhakāyaṃ uragaṃ mahantaṃ
ādāya gacchante pamodamāne.
|
3226. “Tâu vị lănh đạo đất nước, trong khi đi buôn bán, tôi đă
nh́n thấy những đứa trẻ dă man đang vui mừng đi ở trên đường lộ,
mang theo con vật ḅ sát to lớn có cơ thể đă phát triển. |
4. Tâu Đại vương, trong bước hải
hồ,
Trên đường ta thấy lũ côn đồ
Đang lôi Rồng lớn, dây xiềng trói,
Chiến thắng cười vui trở lại nhà. |
3227. Sohaṃ samāgamma janinda
tehi
saṃhaṭṭhalomo avacasmiṃ bhīto,
kuhiṃ ayaṃ nīyati bhīmakāyo
nāgena kiṃ kāhatha bhojaputtā.
|
3227. Tâu vị chúa của loài
người, tôi đây bị kinh hăi, có lông dựng đứng, đă đi đến gặp
chúng và đă nói với chúng rằng: ‘Con vật có cơ thể dễ sợ này bị
đem đi đâu vậy? Này các trai làng, các người sẽ làm ǵ với con
rắn này?’ |
5. Chúa thượng, ta liền đến hét
to:
- Kinh hoàng, ta sửng sốt không ngờ
"Các ngài, lôi quái long đâu đó,
Ác đàng, làm ǵ nó nữa được?" |
3228. Nāgo ayaṃ nīyati
bhojanatthaṃ
pavaḍḍhakāyo urago mahanto,
sāduñca thūlañca muduñca maṃsaṃ
na tvaṃ rasaññāsi videhaputta.
|
3228. ‘Con rắn này bị đem đi v́ mục đích thực phẩm. Nó là con
vật ḅ sát to lớn có cơ thể đă phát triển. Và thịt (của nó)
ngọt, béo, mềm. Này người con trai xứ Videha, ông không biết
hương vị (của nó).’ |
6. Rồng lớn ngài đang thấy trói
vầy
Dị h́nh, cho thực phẩm ta đây
A-là-ra, chẳng c̣n mơ ước
Hưởng món ngon hơn mỹ vị này. |
3229. Ito mayaṃ gantvā sakaṃ
niketaṃ
ādāya satthāni vikopayitvā,
maṃsāni bhokkhāma pamodamānā
mayaṃ hi ve sattavo pannagānaṃ.
|
3229. Từ nơi này, chúng tôi sẽ đi về chỗ ở của ḿnh, sẽ cầm lấy
các con dao, sẽ cắt ra, và sẽ vui mừng thưởng thức các miếng
thịt. Bởi v́ chúng tôi chính là những kẻ thù của các con rắn.’ |
7. Từ đây ta vụt thẳng về nhà
Mỗi đứa dùng dao xẻ thịt ra,
Thưởng thức thịt ngon, v́ phải biết,
Từ thủ rồng rắn chính nhà ta. |
3230. Sace ayaṃ nīyati
bhojanatthaṃ
pavaḍḍhakāyo urago mahanto,
dadāmi vo balivaddāni soḷasa
nāgaṃ imaṃ muñcatha bandhanasmā.
|
3230. ‘Nếu con vật này bị đem
đi v́ mục đích thực phẩm. Nó là con vật ḅ sát to lớn có cơ thể
đă phát triển. Tôi biếu các người mười sáu con ḅ đực. Các người
hăy phóng thích con rắn này khỏi sự trói buộc.’
|
8. V́ Rồng này mới bắt trong rừng
Đang bị kéo về nấu món ăn,
Ta tặng mỗi ḅ cho một vị,
Các ngài thả nó khỏi dây chăng? |
Trang 196:
|
Trang 197:
|
3231. Addhā hi no bhakkho ayaṃ
manāpo
bahū ca no uragā bhuttapubbā,
karoma te taṃ vacanaṃ aḷāra
mittañca no hohi videhaputta.
|
3231. ‘Quả thật, món ăn này mới hợp ư chúng tôi. Và những loài
ḅ sát, đối với chúng tôi đă được ăn trước đây nhiều rồi. Này
ông Aḷāra, chúng tôi làm theo lời nói ấy của ông. Này người con
trai xứ Videha, ông hăy là bạn của chúng tôi.’ |
9. Thịt ḅ nghe quả thật bùi tai,
Rồng rắn ê hề thịt bấy nay,
Lời ấy, A-là, ta chấp thuận,
Từ đây, t́nh bạn sẽ lâu dài. |
3232. Tadassu te bandhanā
mocayiṃsu
yaṃ natthuto paṭimokkhassa pāse,
mutto ca so bandhanā nāgarājā
pakkāmi pācīnamukho muhuttaṃ.
|
3232. Tất nhiên, bọn chúng đă phóng thích con rắn khỏi sự trói
buộc,
là sự vướng mắc vào sợi dây đă được xuyên qua lỗ mũi của con
rắn.
Và được tự do khỏi sự trói buộc, con rắn chúa ấy
đă mau chóng trườn đi, với mặt hướng về phía đông. |
10 Chúng thả ngài ra khỏi sợi dây
Buộc xuyên qua lỗ mũi căng thay,
Chúa Rồng thoát được ṿng tù tội
Hướng mặt về đông, nghỉ lát giây. |
3233. Gantvāna pācīnamukho
muhuttaṃ
puṇṇehi nettehi pālokayī maṃ,
tadassahaṃ piṭṭhito anvagacchiṃ
dasaṅguliṃ añjaliṃ paggahetvā.
|
3233. Sau khi đă mau chóng trườn đi, với mặt hướng về phía đông,
con rắn đă ngước nh́n tôi với hai mắt đẫm lệ.
Khi ấy, tôi đă đi theo phía sau của con rắn,
sau khi đă đưa lên mười ngón tay được chắp lại, (nói rằng): |
11. Vẫn nh́n đông, đă sẵn sàng
bay,
Quay lại ngắm ta, mắt lệ đầy,
Trong lúc ta nh́n theo hướng ấy,
Như người cầu nguyện chắp đôi tay: |
3234. Gaccheva kho tvaṃ
taramānarūpo
mā taṃ amittā punaraggahesuṃ,
dukkho hi luddehi punā samāgamo
adassanaṃ bhojaputtāna gaccha.
|
3234. ‘Ngươi hăy mau mau đi đi.
Chớ để các kẻ thù bắt lại ngươi lần nữa.
Bởi v́, việc gặp lại những kẻ hung bạo lần nữa th́ khổ lắm.
Ngươi hăy đi khuất tầm nh́n của những gă trai làng.’ |
12. "Nhanh chân chạy trốn, hỡi
thân bằng,
E lại sa vào lũ địch nhân,
Tránh bọn bạo tàn, dù thoáng thấy,
Nếu không, ắt phải họa vào thân". |
3235. Agamāsi so rahadaṃ
vippasannaṃ
nīlobhāsaṃ ramaṇīyaṃ sutitthaṃ,
samotataṃ jambuhi cetasāhi
pāvekkhi nittiṇṇabhayo patīto.
|
3235. Con rắn đă đi đến một hồ nước trong veo,
có màu nước xanh, đáng yêu, có bến tắm xinh,
được trải dài với những cây mận và những cây lau sậy.
Với nỗi sợ hăi đă qua đi, con rắn đă hớn hở trườn vào hồ nước. |
13. Ngài vội đến hồ nước đẹp
trong,
Đôi bờ lau sậy lẫn đào hồng,
Trong ḷng hoan hỷ, không c̣n sợ,
Lặn xuống vực sâu thẳm mịt mùng. |
3236. So taṃ pavissa na cirassa
nāgo
dibbena me pāturahū janinda,
upaṭṭhahi maṃ pitaraṃ va putto
hadayaṅgamaṃ kaṇṇasukhaṃ bhaṇanto.
|
3236. Sau khi trườn
vào hồ nước không bao lâu, tâu vị chúa của loài người, con rắn
ấy đă hiện ra trước mặt tôi với dáng vóc thiên thần. Con rắn đă
phục vụ cho tôi, tựa như đứa con trai phục vụ người cha, trong
lúc thốt ra lời nói thấm vào trái tim, thoải mái lỗ tai. |
14. Vừa khi biến mất, vị Long
vương
Hiển lộ thần thông thực rơ ràng,
Thái độ ân cần, đầy tin cẩn,
Lời tri ân cảm động can tràng. |
3237. Tvaṃ mesi mātā ca pitā
aḷāra
abbhantaro pāṇadado sahāyo,
sakañca iddhiṃ paṭilābhitosmi
aḷāra passa me nivesanāni,
pahūtabhakkhaṃ bahu annapānaṃ
masakkasāraṃ viya vāsavassa.
|
3237. ‘Này Aḷāra, ông
là người mẹ, là người cha của ta,
là máu thịt, là người đă ban cho mạng sống, là người cộng sự của
ta.
Và ta đă đạt lại thần lực của ḿnh.
Này Aḷāra, ông hăy xem các chỗ trú ngụ của ta,
có vô số thức ăn, có nhiều cơm nước,
tựa như cung điện Masakkasāra của Thiên Chủ Vāsava. |
15. Ngài thân thiết vượt đấng
sinh thành,
Đă cứu đời ta, bạn chí t́nh
Đến tận tay xương, nhờ chính bạn
Niềm hoan lạc trước được hồi sinh,
A-là, ngài viếng nơi ta ngự,
Cung điện đầy kho thực phẩm lành.
Chẳng khác In-dra thành thượng giới,
Ma-sak-ka, xứ sở lừng danh. |
3238. Taṃ bhūmibhāgehi upetarūpaṃ
asakkharā ceva mudū subhā ca,
nīcatiṇā apparajā ca bhūmi
pāsādikā yattha jahanti sokaṃ.
|
3238. Nơi ấy có h́nh thức được cấu trúc với nhiều phần đất.
Các phần đất ấy không có sỏi, êm ái, và xinh đẹp,
có các loài cỏ thấp, và mặt đất không có bụi,
tạo ra sự dễ chịu; là nơi mọi người buông bỏ sầu muộn. |
16. Quốc độ ta bao cảnh tuyệt vời
Dưới chân cỏ mướt phủ xanh tươi
chẳng vươn cát bụi trên đường lộ,
chốn ấy, ly sầu, hưởng lạc thôi. |
3239. Anāvakūlā veḷuriyūpanīlā
cātuddisaṃ ambavanaṃ surammaṃ,
pakkā ca pesī ca phalā suphullā
niccotukā dhārayantī phalāni.
|
3239. Không bị lồi lơm, (có hồ nước) gần như màu xanh ngọc bích,
ở bốn hướng có rừng xoài vô cùng đáng yêu,
với những chùm trái chín có trái vô cùng xum xuê,
quanh năm thường xuyên trĩu nặng những trái cây. |
17. Sân bằng, tường ngọc bích bao
quanh,
Xoài đẹp sum suê tứ diện thành,
Chùm trái chín muồi khoe sắc thắm,
Bốn mùa thay đổi suốt năm lành. |
Trang 198:
|
Trang 199:
|
3240. Tesaṃ vanānaṃ naradeva
majjhe
nivesanaṃ bhassarasannikāsaṃ,
rajataggaḷaṃ soṇṇa mayaṃ uḷāraṃ
pabhāsati vijjurivantalikkhe.
|
3240. ’Tâu vị chúa của con người, ở giữa các khu rừng ấy là nơi
trú ngụ có vẻ ngoài rực rỡ, cao quư làm bằng vàng, có chốt cửa
bằng bạc, phát sáng tựa như tia chớp ở không trung. |
18. Giữa rừng xoài ấy, điện bằng
vàng
Ngài ngắm, then cài bạc chắn ngang,
Rực rỡ cung đ́nh kia nổi bật
Hơn làn chớp lóe giữa không gian. |
3241. Maṇimayā sovaṇṇamayā uḷārā
anekavittā satataṃ sunimmitā,
paripūrā kaññāhi alaṅkatāhi
sovaṇṇa kāyūradharāhi rāja.
|
3241. Tâu bệ hạ, (các gian pḥng) được làm bằng ngọc ma-ni, được
làm bằng vàng, cao quư, có nhiều tranh vẽ thường xuyên khéo được
hóa hiện ra, được đông đúc với các thiếu nữ đă được trang điểm,
có mang các ṿng vàng ở cánh tay. |
19. Tô điểm bảo châu, đẹp dị
thường
Biết bao tranh vẽ quư trang hoàng,
Bầy tiên phục sức xa hoa quá,
Trước ngực đong đưa chuỗi hạt vàng. |
3242. So saṅkhapālo taramānarūpo
pāsādamāruyha anomavaṇṇo,
sahassathambhaṃ atulānubhāvaṃ
yatthassa bhariyā mahesī ahosi.
|
3242. Vị Saṅkhapāla ấy, có sắc đẹp hoàn hảo, đă vội vă bước lên
ṭa lâu đài có sự uy nghi không thể sánh bằng với một ngàn cột
trụ, nơi ấy hoàng hậu, người vợ của vị ấy, cư ngụ. |
20. Sam-kha đại đế ngự lên mau
Lầu thượng, quyền uy thật tối cao
Được dựng lên ngàn hàng cột trụ,
Ấy cung hoàng hậu được ngài giao. |
3243. Ekā ca nārī taramānarūpā
ādāya veḷuriyamayaṃ mahagghaṃ,
subhaṃ maṇiṃ jātimantūpapannaṃ
acoditā āsanamabbhihāsi.
|
3243. Và một nữ nhân, không được sai bảo, đă vội vă cầm lấy và
mang lại chiếc ghế xinh đẹp, làm bằng ngọc bích, vô cùng giá
trị, được gắn viên ngọc ma-ni nguyên chất. |
21. Nhanh nhẹn một tiên nữ giữa
bầy,
Cầm viên ngọc báu ở trong tay
Ngọc lam quư hóa đầy thần lực,
Tự ư mời ta một chiếc ngai. |
3244. Tato maṃ urago hatthe
gahetvā
nisīdayī pamukhamāsanasmiṃ,
idamāsanaṃ atra bhavaṃ nisīdatu
bhavañhi me aññatāro garūnaṃ.
|
3244. Kế đó, vị Long Vương đă cầm lấy tôi ở bàn tay
và đă mời tôi ngồi vào chiếc ghế cao nhất (nói rằng):
‘Thưa ngài, hăy ngồi ở chiếc ghế này tại đây,
bởi v́ ngài là một trong những vị quan trọng đối với ta.’ |
22. Rồng chúa nắm tay dẫn đến nơi
Sừng sững cao sang, một chiếc ngai:
"Xin ngài an tọa, ta ngồi cạnh
Như đấng sinh thành, thắm thiết thay!". |
3245. Aññā ca nārī taramānarūpā
ādāya vāriṃ upasaṅkamitvā,
pādāni pakkhālayi me janinda
bhariyāva bhattu patino piyassa.
|
3245. Và một nữ nhân
khác đă vội vă
lấy nước mang đến gần
và đă rửa sạch hai bàn chân của tôi, tâu vị chúa của loài người,
tựa như người vợ rửa chân cho người chồng, người chủ nhân yêu
quư. |
23. Thêm một nàng theo kịp lệnh
ngài
Đến cùng b́nh nước ở trong tay,
Rửa chân, hầu hạ ta chu đáo
Như chánh hậu chầu Long đế đây. |
3246. Aparā ca nārī taramānarūpā
paggayha sovaṇṇamayāya pātiyā,
anekasūpaṃ vividhaṃ viyañjanaṃ
upanāmayī bhatta manuññarūpaṃ.
|
3246. Và một nữ nhân
khác nữa đă vội vă
tŕnh lên chiếc đĩa làm bằng vàng,
và đă dâng bữa ăn có h́nh thức hấp dẫn,
với nhiều xúp, với nhiều loại thức ăn phụ. |
24. Thêm nàng tiên nữa thật nhanh
chân
Dâng chén vàng cơm thập cẩm ngon
Gia vị thơm nồng càng cám dỗ
Kẻ thèm ăn mỹ vị cao lương. |
3247. Turiyehi maṃ bhārata
bhuttabhattaṃ
upaṭṭhahuṃ bhattu mano viditvā,
tatuttariṃ maṃ nipatī mahantaṃ
dibbehi kāmehi anappakehi.
|
3247. Tâu vị cai quản
đất nước, khi tôi đă ăn xong bữa ăn, biết được tâm ư của chồng,
các nàng đă phục vụ tôi bằng các loại nhạc cụ. Chúa rồng đă cung
phụng tôi c̣n lớn lao hơn thế nữa bằng các dục của cơi Trời
không phải là ít, (nói rằng): |
25. Trỗi nhạc lên- v́ chàng hiểu
rằng
Đó là ư chúa - Chúng hằng mong
Chiếm ḷng ta, cũng như Long đề
Đem thù thần tiên để tấn công. |
3248. Bhariyā mametā tisatā aḷāra
sabbattamajjhā padumuttarābhā,
āḷāra etāsu te kāmakāro
dadāmi te tā paricārayassu.
|
3248. ‘Thưa Aḷāra, ba
trăm nàng này là những người vợ của ta, tất cả đều có lưng ong,
có sự rạng rỡ vượt trội hoa sen. Thưa Aḷāra, các nàng sẽ phục vụ
dục lạc cho ngài. Ta ban tặng các nàng đến ngài. Ngài hăy để cho
các nàng ấy hầu hạ.’ |
26. Ba trăm tỷ thiếp, hỡi A-là,
Trẫm có sẵn đây cả ấy mà,
Tất cả đều lưng thon yểu điệu,
Yêu kiều dung sắc vượt liên hoa,
Ḱa xem! Chúng chỉ chiều tôn ư,
Xin nhận lời ban tặng của ta. |
Trang 200:
|
Trang 201:
|
3249. Saṃvaccharaṃ
dibbarasānubhutvā
tadassahaṃ uttariṃ paccabhāsiṃ,
nāgassidaṃ kinti kathañca laddhaṃ
kathajjhagamāsi vimānaseṭṭhaṃ.
|
3249. Sau khi hưởng thụ hương vị (ngũ dục) ở cơi Trời một năm,
khi ấy, tôi đă hỏi về sự vươn lên của vị này: ‘Việc này của Long
Vương là như thế nào? Và đă đạt được như thế nào? Làm thế nào
ngài đă có được cung điện tuyệt vời? |
27. Một năm thiên lạc hưởng tràn
đầy,
Ta hỏi Long vương một chuyện này:
"Sao được tiên cung làm nội thất,
Làm sao cung điện đến phần ngài? |
3250. Adhicca laddhaṃ
pariṇāmajante
sayaṃ kataṃ udāhu devehi dinnaṃ,
pucchāmi taṃ nāgarājetamatthaṃ
kathajjhagamāsi vimānaseṭṭhaṃ.
|
3250. Có phải đạt được do ngẫu nhiên, nó đă được sanh lên dành
riêng cho ngài, nó đă được tự thân làm ra, hay là đă được chư
Thiên ban tặng? Thưa Long Vương, tôi hỏi ngài về sự việc này.
Làm thế nào ngài đă có được cung điện tuyệt vời?’ |
28. Tiên cảnh này thành tựu ngẫu
nhiên,
Được ngài xây? Tặng vật chư Thiên?
Long vương xin nói điều chân thật,
Sao đến an nhàn ở cảnh tiên? |
3251. Nādhicca laddhaṃ na
pariṇāmajaṃ me
na sayaṃ kataṃ napi devehi dinnaṃ,
sakehi kammehi apāpakehi
puññehi me laddhamidaṃ vimānaṃ.
|
3251. ‘Nó không phải đạt được do ngẫu nhiên, nó không phải đă
được sanh lên dành riêng cho tôi, không phải đă được tự thân tạo
ra, cũng không phải đă được chư Thiên ban tặng. Tôi đă đạt được
cung điện này nhờ vào các việc phước thiện, nhờ vào các hành
động không xấu xa của bản thân.’ |
29. Chẳng phải t́nh cờ, chẳng tự
nhiên,
Chẳng do ta tạo, hoặc chư Thiên,
Chính nhờ thiện nghiệp ta, ngài biết,
Nhờ đức hạnh, ta hưởng cảnh tiên. |
3252. Kinte vataṃ kiṃ pana
brahmacariyaṃ
kissa suciṇṇassa ayaṃ vipāko,
akkhāhi me nāgarājetamatthaṃ
kathannu te laddhamidaṃ vimānaṃ.
|
3252. ‘Phận sự của
ngài là ǵ? Thêm nữa, Phạm hạnh của ngài là ǵ?
Quả thành tựu này là của việc nào đă khéo được thực hành?
Thưa Long Vương, tôi hỏi ngài về sự việc này.
Làm thế nào ngài đă có được cung điện tuyệt vời này?’ |
30. Hạnh nguyện ǵ, đâu Thánh đạo
cao,
Đức ǵ tích trữ phước ngày sau?
Long vương, xin nói, ta mong biết
Ngài huởng tiên cung bởi cách nào? |
3253. Rājā ahosiṃ
magadhānamissaro
duyyodhano nāma mahānubhāvo,
so ittaraṃ jīvitaṃ saṃviditvā
asassataṃ vipariṇāmadhammaṃ.
|
3253. ‘Tôi đă là vị
vua, vị chúa tể của xứ Magadha,
tên là Duyyodhana có đại thần lực.
Tôi đây đă biết được mạng sống là ngắn ngủi,
không thường c̣n, có tính chất biến hoại. |
|
3254. Annañca pānañca
pasannacitto
sakkacca dānaṃ vipulaṃ adāsiṃ,
opānabhūtaṃ me gharaṃ tadāsi
santappitā samaṇabrāhmaṇā ca.
|
3254. Có tâm tịnh
tín, tôi đă bố thí rộng răi vật thí, cơm ăn, và nước uống một
cách trân trọng. Khi ấy, ngôi nhà của tôi đă có h́nh thức như là
cái giếng nước, và các vị Sa-môn, Bà-la-môn đă được toại ư. |
|
3255. Mālañca gandhañca
vilepanañca
padīpiyaṃ yānamupassayañca,
acchādanaṃ sayanam athannapānaṃ
sakkacca dānāni adamha tattha.
|
3255. Tại nơi ấy,
chúng tôi đă ban phát các vật thí một cách trân trọng, như là
tràng hoa, hương thơm, và dầu thoa, đèn đuốc, xe thuyền, và chỗ
trú ngụ, vải vóc che thân, giường nằm, rồi cơm nước. |
|
3256. Taṃ me vataṃ taṃ pana
brahmacariyaṃ
tassa suciṇṇassa ayaṃ vipāko,
teneva me laddhamidaṃ vimānaṃ
pahūtabhakkhaṃ bahuannapānaṃ,
naccehi gītehi cupetarūpaṃ
ciraṭṭhitikaṃ na ca sassatāyaṃ.
|
3256. Việc ấy đă là
phận sự của tôi. Việc ấy c̣n là Phạm hạnh của tôi.
Quả thành tựu này là của việc đă khéo được thực hành ấy.
Chính nhờ vào việc ấy, tôi đă có được cung điện tuyệt vời này,
có vô số thức ăn, có nhiều cơm nước,
và có h́nh thức được cung ứng với các điệu vũ lời ca;
việc này được tồn tại lâu dài, nhưng không vĩnh viễn.’ |
33. Ta nguyện lời kia, sống trọn
đời
Tu nhân tích đức góp gom hoài,
Cung này, nhờ đó, sau cùng hưởng,
Thực phẩm tràn đầy chứa khắp nơi. |
3257. Appānubhāvā taṃ
mahānubhāvaṃ
tejassinaṃ hanti atejavanto,
kimeva dāṭhāvudha kiṃ paṭicca
hatthatthamāgañchi vaṇibbakānaṃ. |
3257. ‘Tại v́ sao mà những kẻ không có uy quyền, có năng lực ít
ỏi lại có thể hành hạ ngài là người có uy quyền, có đại thần
lực? Thưa vị có răng nanh là vũ khí, liên quan đến điều ǵ mà
ngài đă phải chịu nằm yên ở trong tay của những kẻ khốn cùng?
|
34. Cuộc đời dù sáng rực bao
ngày,
Vũ khúc, hoan ca chẳng kéo dài,
Kẻ yếu hại ngài v́ đại lực,
Lũ hèn làm dũng sĩ xa bay:
Răng thần sao đấu không cân sức,
Ngài chịu thua bầy hạ tiện vầy? |
Trang 202:
|
Trang 203:
|
3258. Bhayannu te anvagataṃ
mahantaṃ
tejonu te nānvagaṃ dantamūlaṃ,
kimeva dāṭhāvudha kiṃ paṭicca
kilesamāpajji vaṇibbakānaṃ.
|
3258. Phải chăng uy lực của ngài đă đi theo nỗi sợ hăi lớn lao?
Tại v́ sao mà uy lực của ngài không đi vào gốc rễ của chiếc
răng? Thưa vị có răng nanh là vũ khí, liên quan đến điều ǵ mà
ngài đă phải chịu sự quấy nhiễu của những kẻ khốn cùng?’ |
35. Ngài chịu đau v́ quá hăi
hùng?
Do đâu nọc độc đă tiêu vong?
Sao ngài thần lực đầy răng ấy,
Mà phải chịu đau bởi ác nhân? |
3259. Na me bhayaṃ anvagataṃ
mahantaṃ
tejo na sakkā mama tehi hantuṃ,
satañca dhammāni sukittitāni
samuddavelāva duraccayāni.
|
3259. ‘Uy lực của ta đă không đi theo nỗi sợ hăi lớn lao. Uy lực
của ta không thể bị hủy hoại bởi bọn chúng. Các lời giáo huấn
của các bậc thiện nhân đă khéo được thuyết giảng là không thể vi
phạm, tựa như bờ biển là không thể được qua. |
36. Ta chẳng thua v́ quá hăi
hùng,
Chẳng ai làm đại lực tiêu vong,
Mọi người thừa nhận bao công đức
Như biển bờ cao, chẳng ngập tràn. |
3260. Cātuddasiṃ pañcadasiṃ c’
aḷāra
uposathaṃ niccamupāvasāmi,
athāgamuṃ soḷasa bhojaputtā
rajjuṃ gahetvāna daḷhañca pāsaṃ.
|
3260. Này Aḷāra, vào ngày mười bốn và ngày mười lăm,
ta thường xuyên thực hành ngày trai giới.
Khi ấy, mười sáu gă trai làng đă đi đến
mang theo dây thừng và lưới bẫy chắc chắn. |
37. Ngày trai mỗi tháng giữ hai
lần,
Chính buổi kia ngăn chặn bước đàng,
Mười sáu chàng trai, tay nắm đủ
Dây thừng, tḥng lọng cực kỳ sang. |
3261. Bhetvāna nāsaṃ atikassa
rajjuṃ
nayiṃsu maṃ samparigayha luddā,
etādisaṃ dukkhamahaṃ titikkhaṃ
uposathaṃ appaṭikopayanto.
|
3261. Sau khi đâm thủng lỗ mũi và xuyên sợi dây qua,
những kẻ hung bạo đă nắm lấy ta và lôi ta đi.
Tôi đă chịu đựng sự khổ đau như thế ấy,
trong khi không làm hư hoại ngày trai giới.’ |
38. Bọn ác nhân đâm thủng mũi ta
Xuyên dây thừng ấy, kéo ta qua,
Đớn đau, ta chịu, ôi đành phận,
Giữ Thánh nhật cho khỏi phạm mà. |
3262. Ekāyane taṃ pathe addasaṃsu
balena vaṇṇena c’ upetarūpaṃ,
siriyā ca paññāya ca bhāvitosi
kimatthiyaṃ nāga tapo karosi.
|
3262. ‘Bọn trai làng đă nh́n thấy ngài trên đường đi, ở lối đi
bộ
với vóc dáng đầy đủ sức mạnh và sắc đẹp.
Ngài đă được thành tựu về quyền uy và trí tuệ,
thưa Long Vương, v́ mục đích ǵ mà ngài thực hành khổ hạnh? |
39. Thấy trên đường vắng, trải
giăng dài
H́nh đẹp, khổng lồ, đại lực oai:
"Bậc trí hiển vinh", ta thét lớn,
"Sao nguyền đời khổ hạnh, thưa ngài?" |
3263. Na puttahetu na dhanassa
hetu
na āyuno cāpi aḷāra hetu,
manusassayoniṃ abhipatthayāno
tasmā parakkamma tapo karomi.
|
3263. ‘Không v́ nguyên nhân con trai, không v́ nguyên nhân tài
sản,
và cũng không v́ nguyên nhân tuổi thọ, này Aḷāra,
trong khi ước nguyện về bản thể loài người,
sau khi nỗ lực v́ điều ấy, ta đă thực hành hạnh khắc khổ.’ |
40. Ta chẳng cầu con, chẳng ước
giàu,
Chẳng mong thọ mạng được dài lâu,
Song trên nhân thế ta mong sống
Nỗ lực anh hùng đạt đích cao. |
3264. Tvaṃ lohitakkho
vihatantaraṃso
alaṅkato kappitakesamassu,
surosito lohitacandanena
gandhabbarājāva disā pabhāsasi.
|
3264. ‘Với mắt đỏ ngầu, với bờ vai rộng,
đă được trang điểm, có râu tóc đă được chăm sóc,
khéo được thoa trầm hương đỏ,
ngài tỏa sáng các phương tựa như vị vua của các Càn-thát-bà. |
41. Tóc râu chải chuốt, dáng oai
hùng,
Phục sức hoàng y, mắt lửa bừng,
Đỏ thắm chiên-đàn, ngài rực rỡ
Xa xa, nào khác Nhạc thiên thần. |
3265. Deviddhipattosi mahānubhāvo
sabbehi kāmehi samaṅgibhūto,
pucchāmi taṃ nāgarājetamatthaṃ
seyyo ito kena manussaloko.
|
3265. Ngài đă đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực,
được phú cho tất cả các dục.
Thưa Long Vương, tôi hỏi ngài ư nghĩa này,
thế giới loài người tốt hơn nơi này bởi điều ǵ?’
|
42. Hưởng bao ân huệ lộc trời
cho,
Đầy đủ mọi điều dạ ước mơ,
Ta hỏi Long vương, xin nói thật,
Cơi người sao lại muốn an cư? |
Trang 204:
|
Trang 205:
|
3266. Āḷāra nāññatra manussalokā
suddhi vā saṃvijjati saññamo vā,
ahañca laddhāna manussayoniṃ
kāhāmi jātimaraṇassa antaṃ.
|
3266. ‘Này Aḷāra, ngoại trừ thế giới loài người, không nơi nào
khác
được t́m thấy sự trong sạch và sự tự kiềm chế.
Và ta sau khi đạt được bản thể loài người,
sẽ thực hiện việc chấm dứt sanh tử.’ |
43. Không đâu trừ thế giới người
đời
Thanh tịnh, điều thân được thấy rồi,
Chỉ sống giữa đời người thế tục
Đọan trừ sinh tử kiếp sau thôi. |
3267. Saṃvaccharo me usito
tavantike
annena pānena upaṭṭhitosmi,
āmantayitvāna paḷemi nāga
cirappavutthosmi ahaṃ janinda.
|
3267. ‘Một năm qua tôi được sống
bên cạnh ngài,
tôi được phục vụ cơm ăn nước uống.
Thưa Long Vương, sau khi thông báo th́ tôi ra đi.
Tâu vị chúa của loài người, tôi sống xa nhà đă lâu.’ |
44. Dù hưởng đầy hoan lạc dị
thường,
Cùng Long vương sống suốt năm trường,
Giờ ta vĩnh biệt, ra đi mău,
Không ở nữa, v́ xa cố hương. |
3268. Puttā ca dārā c’ anujīvino
ca
niccānusiṭṭhā upatiṭṭhate taṃ,
kaccinnu te nābhisaṃsittha koci
piyañhi me dassanaṃ tuyhaḷāra.
|
3268. ‘Vợ, các con, và những
người sống phụ thuộc
thường xuyên được giáo huấn, có thể phục vụ ông.
Có lẽ không người nào đă mắng nhiếc ông?
Bởi v́, này Aḷāra, việc nh́n thấy ông là điều yêu thích của ta.’ |
45. Thê nhi trẫm với lũ cung nhân
Được luyện hầu ngài, lệnh phục tuân,
Chắc chẳng kẻ nào gây xúc phạm,
V́ ngài, trẫm thấy rất thương thân. |
3269. Yathāpi mātū ca pitū agāre
putto piyo paṭivihito vaseyya,
tatopi mayhaṃ idha meva seyyo
cittaṃ hi te nāga mayī pasannaṃ.
|
3269. ‘Cũng giống như người mẹ và
người cha ở gia đ́nh,
người con trai sống, được yêu thương, được chăm sóc;
tuy nhiên, đối với tôi, chính nơi này là tốt hơn nơi ấy,
bởi v́, thưa Long Vương, tâm của ngài được tịnh tín ở nơi tôi.’
|
46. Đủ mặt mẹ cha thắm thiết
t́nh,
Hân hoan tràn ngập cả gia đ́nh,
C̣n nhiều người quư yêu con trẻ,
Song lạc tối cao giữa chúng sinh
Ta được thấy đây, Long đế hỡi,
V́ ngài đầy thắm thiết bên ḿnh. |
3270. Maṇī mamaṃ vijjati
lohitaṅko
dhanāharo maṇiratanaṃ uḷāraṃ,
ādāya taṃ gaccha sakaṃ niketaṃ
laddhā dhanaṃ taṃ maṇimossajassu.
|
3270. ‘Viên ngọc ma-ni của ta
được biết là viên hồng ngọc,
bảo vật ma-ni cao quư là vật mang lại tài sản.
Ông hăy cầm lấy nó và đi về chỗ ở của ḿnh.
Sau khi đạt được tài sản, ông hăy trả lại viên ngọc ma-ni ấy.’ |
47. Bảo châu trẫm có điểm hồng
vân
Đem đại phú cho kẻ thiếu phần,
Nhận lấy về nhà, khi phú quư,
Xin đưa trả ngọc lại Long quân. |
3271. Diṭṭhā mayā mānusikāpi kāmā
asassatā vipariṇāmadhammā,
ādīnavaṃ kāmaguṇesu disvā
saddhāyahaṃ pabbajitomhi rāja.
|
3271. Tôi nh́n thấy các dục thuộc
về nhân loại
là không thường c̣n, có tính chất biến hoại.
Sau khi nh́n thấy điều bất lợi ở các loại dục,
v́ đức tin tôi đă xuất gia, tâu bệ hạ. |
48. Dục tham trần thế thoáng qua
nhanh
Chẳng phục tuân quy luật trưởng thành,
Thấy khổ phát sinh từ ái dục,
Tín tâm dẫn bước đến tu hành. |
3272. Dumapphalāneva patanti
māṇavā
daharā ca vuddhā ca sarīrabhedā,
etampi disvā pabbajitomhi rāja.
apaṇṇakaṃ samaññameva seyyo.
|
3272. Tựa như các trái ở trên cây
rụng xuống, loài người,
ở tuổi non trẻ và già cả, khi có sự tan ră thân xác đều ngă
xuống.
Tâu bệ hạ, sau khi nh́n thấy điều ấy, tôi đă xuất gia.
Chỉ có đời sống Sa-môn không có lỗi lầm là tốt hơn.” |
49. Người tàn như trái rụng, tiêu
vong,
Già trẻ, muôn loài ră mục thân,
Ta chỉ trú an trong Thánh hạnh,
Tối ưu là Thực thể thuần chân. |
3273. Addhā have sevitabbā
sapaññā
bahussutā ye bahuṭhānacintino,
nāgañca sutvāna tavañcaḷāra
kāhāmi puññāni anappakāni.
|
3273. “Quả thật, đúng vậy, nên
thân cận các bậc có trí tuệ,
các bậc đa văn, các vị có những suy nghĩ thiết thực.
Này Aḷāra, sau khi lắng nghe vị Long Vương và đại đức,
trẫm sẽ làm các việc phước thiện không phải là ít.” |
50. Bậc hiền có trí tuệ uyên
thâm,
Chư vị tu Thiền định chú tâm
Đề mục tối cao, mà tất cả
Chúng ta phải luyện tập tinh cần;
Nghe lời ngài dạy, cùng Long đế,
Trẫm thực hành toàn nghiệp thiện chân. |
Trang 206:
|
Trang 207:
|
3274. Addhā have sevitabbā
sapaññā
bahussutā ye bahuṭhānacintino,
nāgañca sutvāna mamañca rāja
karohi puññāhi puññāni anappakānī ”ti.
|
3274. “Quả thật, đúng vậy, nên
thân cận các bậc có trí tuệ,
các bậc đa văn, các vị có những suy nghĩ thiết thực.
Tâu bệ hạ, sau khi lắng nghe vị Long Vương và tôi,
bệ hạ hăy làm các việc phước thiện không phải là ít.” |
51. Bậc hīền, có trí tuệ uyên
thâm,
Chư vị tu thiền định chú tâm
Đề mục tối cao, mà tất cả
Chúng ta phải luyện tập tinh cần;
Nghe lời ta dạy, cùng Long đế,
Chúa thượng thực hành nghiệp thiện chân.
Câu chuyện
524 |
Saṅkhapālajātakaṃ.
*** |
Bổn Sanh Long
Vương Saṅkhapāla. [524]
*** |
▪ 5.
CULLASUTASOMAJĀTAKAṂ
|
▪ 5.
TIỂU BỔN SANH SUTASOMA
|
525. Chuyện tiểu
Sutasoma
(Tiền thân
Culla-Sutasoma) |
3275. Āmantayāmi nigamaṃ
mittāmacce pārisajje ca,
sirasmiṃ palitaṃ jātaṃ
pabbajjaṃ dāni rocahaṃ.
|
3275. “Trẫm thông báo cho cư dân
ở phố thị,
các thân hữu và các quan đại thần ở cuộc họp,
ở trên đầu (của trẫm) có sợi tóc bạc đă xuất hiện,
giờ đây trẫm đă vui thích sự xuất gia.” |
1. Hiền hữu, thần dân tụ tập
đây,
Quân sư tin cẩn, hăy nghe vầy:
Giờ đầu tóc bạc ta dần hiện,
Ta muốn trở thành ẩn sĩ ngay. |
3276. Abhuṃ me kathannu bhaṇasi
sallaṃ me deva urasi kappesi,
sattasatā te bhariyā
kathannu te tā bhavissanti.
|
3276. “Theo thần là không có lợi!
Bệ hạ nói thế nào?
Tâu bệ hạ, bệ hạ đă cắm mũi tên vào ngực của thần.
Bệ hạ có bảy trăm người vợ,
các nàng ấy của bệ hạ sẽ như thế nào?” |
2. Bất xứng lời kia đă thốt
ra,
Mũi tên Hoàng thượng thấu tim ta:
Bảy trăm cung nữ, tâu Hoàng thượng,
Sẽ thế nào khi chúa xuất gia? |
3277. Paññāyihinti etā
daharā aññampi tā gamissanti,
saggañca patthayāno
tenāhaṃ pabbajissāmi.
|
3277. “Các nàng ấy sẽ biết (việc
của họ),
c̣n trẻ, các nàng sẽ đi theo người khác.
Là người đang ước nguyện cơi Trời,
v́ thế, trẫm sẽ xuất gia.” |
3. Kẻ khác sẽ khuyên chúng hết
buồn,
Chúng đều kiều diễm, tuổi thanh xuân,
C̣n ta hướng đích lên thiên giới,
Nên muốn làm tu sĩ ẩn thân. |
3278. Dulladdhaṃ me āsi sutasoma
yassa te homahaṃ mātā,
yaṃ me vilapantiyā
anapekkho pabbajasi deva.
|
3278. “Điều đạt được xấu xa đă có
cho ta! Này Sutasoma,
khi ta là mẹ của ngài đây,
là việc trong khi mẹ đang than khóc
mà con xuất gia, chẳng đoái hoài, thưa bệ hạ. |
Than ôi! Ngày bất hạnh như
vầy,
Ngày được vương nhi gọi mẹ đây:
V́ quá vô t́nh nh́n lệ thảm,
Con đành làm ẩn sĩ từ nay. |
3279. Dulladdhaṃ me āsi sutasoma
yannaṃ ahaṃ vijāyissaṃ,
yaṃ me vilapattiyā
anapekkho pabbajasi deva.
|
3279. Điều đạt được xấu xa đă có
cho ta! Này Sutasoma,
là việc ta đă hạ sinh ra ngài đây,
là việc trong khi mẹ đang than khóc
mà con xuất gia, chẳng đoái hoài, thưa bệ hạ.” |
5. Bạc phận, than ôi, quả đúng
thời
Sơ-ma yêu quí đă chào đời!
Vô t́nh trước lệ sầu cay đắng
Con quyết tu hành, vương tử ôi! |
3280. Ko nāmeso dhammo sutasoma
kā ca nāma pabbajjā,
yaṃ no amhe jiṇṇe
anapekkho pabbajasi deva.
|
3280. “Cái ǵ gọi là đạo lư ấy?
Này Sutasoma,
và cái ǵ gọi là việc xuất gia?
Là việc mẹ cha đây th́ già cả,
mà con xuất gia, chẳng đoái hoài, thưa bệ hạ. |
6. Pháp nào đây hướng dẫn
vương nhi
Mong ước rời vương quốv biệt ly,
Bỏ mặc lăo thân đời quạnh quẻ,
Ẩn am t́m đến để tu tŕ? |
3281. Puttāpi tuyhaṃ bahavo
daharā appattayobbanā,
mañjū te taṃ apassantā
maññe dukkhaṃ nigacchanti.
|
3281. Con c̣n có nhiều người con
trai,
c̣n trẻ, chưa đến tuổi thành niên.
Chúng là đáng yêu, trong lúc không nh́n thấy con,
cha nghĩ rằng, chúng rơi vào cảnh khổ đau.”
|
7. Vương nhi nhiều ấu tử, e
rằng:
Hết thảy c̣n đang độ búp măng,
Đến lúc vương nhi vừa vắng bóng
Nỗi buồn nào sánh chúng hay chăng? |
Trang 208:
|
Trang 209:
|
3282. Puttehi ca me etehi
daharehi appattayobbanehi,
mañjūhi sabbehipi tumhehi
cirampi ṭhatvā vinābhāvo.
|
3282. “Và với những người con này
của trẫm,
c̣n trẻ, chưa đến tuổi thành niên,
đáng yêu, thậm chí với tất cả, với cha mẹ,
sau khi sống chung đă lâu th́ có sự chia ĺa.” |
8. Quả thật, thần nhi có lắm
con,
Chúng c̣n đang độ tuổi măng non,
Dù bao năm sống gần bên chúng,
Con phải giờ đây vĩnh biệt luôn. |
3283. Chinnaṃ nu tuyhaṃ hadayaṃ
ādu karuṇā ca natthi amhesu,
yaṃ no vikkandantiyo
anapekkho pabbajasi deva.
|
3283. “Trái tim chàng có bị vỡ
tan?
Hay là ḷng thương xót của chàng không có cho chúng thiếp?
Là việc chúng thiếp đang khóc thét,
mà chàng xuất gia, chẳng đoái hoài, thưa bệ hạ.” |
Ḷng ngài chắc phải vỡ v́
buồn,
Hoặc giả ngài không biết xót thương,
Nên ước nguyện theo đời ẩn sĩ,
Để cung tần khóc nỗi cô đơn! |
3284. Na ca mayhaṃ chinnaṃ
hadayaṃ
atthi karuṇāpi mayhaṃ tumhesu,
saggañca patthayāno
tenāhaṃ pabbajissāmi.
|
3284. “Trái tim của trẫm bị vỡ
tan.
Ḷng thương xót của trẫm cũng có cho các nàng.
Là người đang ước nguyện cơi Trời,
v́ thế, trẫm sẽ xuất gia.” |
10. Ḷng ta không thể vỡ v́
buồn
Dẫn thấy đau vầy, cũng xót thương,
Song việc tu hành ta đă quyết
Để ta hưởng cực lạc thiên đường. |
3285. Dulladdhaṃ me āsi sutasoma
yassa te ahaṃ bhariyā,
yaṃ me vilapantiyā
anapekkho pabbajasi deva.
|
3285. “Điều đạt được xấu xa đă có
cho thiếp! Này Sutasoma,
khi thiếp là vợ của ngài đây,
là việc trong khi thiếp đang than khóc
mà chàng xuất gia, chẳng đoái hoài, thưa bệ hạ. |
11. Than ôi! bất hạnh chính là
ngày
Thiếp được xe duyên Chúa thượng đây,
V́ quá vô t́nh nh́n lệ thảm,
Đại vương quyết chí xuất gia ngay. |
3286. Dulladdhaṃ me āsi sutasoma
yassa te ahaṃ bhariyā,
yaṃ me kucchipaṭisandhiṃ
anapekkho pabbajasi deva.
|
3286. Điều đạt được xấu xa đă có
cho thiếp! Này Sutasoma,
khi thiếp là vợ của ngài đây,
là việc bụng mang dạ chửa của thiếp,
mà chàng xuất gia, chẳng đoái hoài, thưa bệ hạ. |
12. Bạc phận, than ôi, đó
chính ngày
Cùng So-ma kết tóc xe dây,
V́ chàng để mặc ai sầu chết,
Quyết chí theo đời ẩn sĩ đây. |
3287. Paripakko me gabbho
kucchigato yāva naṃ vijāyāmi,
māhaṃ eko vidhavā
pacchā dukkhāni addakkhiṃ.
|
3287. Bào thai, thai nhi của
thiếp đă đủ ngày. Cho đến lúc thiếp hạ sanh ra hài nhi ấy, chớ
để thiếp một ḿnh, góa phụ, thiếp đă nh́n thấy các nỗi khổ sở
sau này.” |
13. Măn nguyệt khai hoa đă kế
gần,
Mong chàng ở lại, hỡi vương quân,
Khi con sinh hạ, ngày sầu thảm
Thiếp biết từ đây mất Chúa công. |
3288. Paripakko te gabbho
kucchigato iṅgha tvaṃ vijāyassu,
puttaṃ anomavaṇṇaṃ
taṃ hitvā pabbajissāmi.
|
3288. “Bào thai, thai nhi của
nàng đă đủ ngày. Nào, nàng hăy sanh ra đứa con trai có sắc đẹp
hoàn hảo. Sau khi ĺa bỏ nó, trẫm sẽ xuất gia. |
14. Măn nguyệt khai hoa đă tới
hồi,
Ta chờ đến lúc trẻ ra đời,
Rồi ta từ giả ngay vương tử,
Xuất thế, ta thành ẩn sĩ thôi! |
3289. Mā tvaṃ cande rudi
mā soci vanatimiramattakkhi,
āroha varapāsādaṃ
anapekkho ahaṃ gamissāmi.
|
3289. Này hoàng hậu Candā, nàng
chớ khóc lóc.
Hỡi nàng có cặp mắt đen tuyền (như bông hoa kaṇṇika) của núi
rừng,
nàng hăy bước lên ṭa lâu đài cao quư.
Trẫm sẽ ra đi, chẳng đoái hoài.” |
15. Vương hậu mắt huyền hoa
mượt mà,
Xin nàng đừng khóc nữa v́ ta,
Nguyệt Nga, lên thượng lầu an nghỉ,
Ta sẽ đi, ḷng chẳng thiết tha! |
3290. Ko taṃ amma kopesi
kiṃ rodasi pekkhasi ca maṃ bāḷhaṃ,
kaṃ avajjhaṃ ghātemi
ñātīnaṃ udikkhamānānaṃ.
|
3290. “Thưa mẹ, người nào đă làm
cho mẹ giận?
V́ sao mẹ khóc lóc và nh́n con chăm chăm?
Trong số các thân quyến đang xem xét,
con sẽ giết chết kẻ nào, dầu kẻ ấy không thể bị giết?” |
16. Mẫu hậu có ai khiến mẹ
buồn,
Cớ sao mẹ khóc, lại nh́n con?
Ai trong hoàng tộc ḷng vô đạo,
V́ mẹ, con đành giết sạch luôn. |
Trang 210:
|
Trang 211:
|
3291. Na hi so sakkā hantuṃ
vijitāvī yo maṃ tāta kopesi,
pitā te maṃ tāta avaca
anapekkho ahaṃ gamissāmi.
|
3291. “Bởi v́ vị ấy không thể
giết chết được,
này con yêu, vị vua chiến thắng đă làm mẹ giận.
Này con yêu, cha của con đă nói với mẹ rằng:
‘Trẫm sẽ ra đi, chẳng đoái hoài.’” |
17. Không ai dám hại đến người
kia,
Người khiến ta sầu khổ năo nề,
V́ chính phụ vương con đă nói:
"Ta không đoái tưởng, sẽ ra đi". |
3292. Yāhaṃ pubbe niyyāmi
uyyānaṃ kuñjare ca yodhemi,
sutasome pabbajite
kathannudāni karissāmi.
|
3292. “Trước đây, con đă được
(vua cha) đưa đến
vườn hoa và chiến đấu với các con voi.
Khi (đức vua) Sutasoma đă xuất gia,
vậy giờ đây, con sẽ làm thế nào?” |
18. Có lần ta dạo khắp hoa
viên
Nh́n lũ voi giao đấu trận tiền,
V́ thử phụ vương thành ẩn sĩ
Ta làm ǵ, hỡi kẻ vô duyên? |
3293. Mātu ca me rudantyā
jeṭṭhassa ca bhātuno akāmassa,
hatthepi te gahessaṃ
na hi gacchasi no akāmānaṃ.
|
3293. “Trong khi mẹ của con khóc
lóc,
và anh của con không muốn,
con cũng có thể nắm cha ở cánh tay,
cha không sao đi được khi chúng con không muốn.” |
19. Mẫu hậu đang ngồi khóc nỉ
non,
Vương huynh cũng muốn giữ cha thương,
Con ôm vương phụ bằng tay vậy,
Chẳng để cha đi trái ư con. |
3294. Uṭṭhehi tvaṃ dhāti
imaṃ kumāraṃ ramehi aññattha,
mā me paripanthamakā
saggaṃ mama patthayānassa.
|
3294. “Này nhũ mẫu, bà hăy đứng
lên.
Hăy cho đứa trẻ trai này vui đùa ở nơi khác.
Chớ để nó tạo ra sự chướng ngại cho trẫm,
trong khi trẫm đang đang ước nguyện cơi Trời.” |
20. Gắng nuôi vương tử lớn lên
dần,
Đem trẻ vui đùa chốn khác hơn,
E trẻ phá tan niềm hỷ lạc,
Cản chân ta vội đến thiên đường. |
3295. Yannūnimaṃ dadeyyaṃ
pabhaṅkaraṃ
ko nu me iminā attho,
sutasome pabbajite
kinnu me taṃ karissāmi.
|
3295. “Có lẽ tôi nên cho đi cái
vật chiếu sáng này.
Lợi ích ǵ cho tôi với vật này?
Khi (đức vua) Sutasoma đă xuất gia,
không lẽ tôi sẽ sử dụng vật ấy cho tôi?” |
21. V́ ta từ khước hạt minh
châu,
Ta chẳng màng chi - sẽ thế nào?
V́ Chúa thượng ta làm ẩn sĩ
Bảo châu c̣n có nghĩa ǵ đâu? |
3296. Koso ca tuyhaṃ vipulo
koṭṭhāgārañca tuyhaṃ paripūraṃ,
paṭhavī ca tuyhaṃ vijitā
ramassu mā pabbajassu deva.
|
3296. “Kho tàng của bệ hạ là bao
la,
kho chứa đồ của bệ hạ đầy ắp,
trái đất đă được chiến thắng là thuộc về bệ hạ;
tâu bệ hạ, xin bệ hạ hăy vui sướng, chớ xuất gia.” |
22. Đại vương đầy ắp mọi kho
tàng,
Chúa thượng tạo nên đại phú cường,
Toàn cơi thế gian đều khuất phục,
Chớ làm ẩn sĩ, sống thư nhàn. |
3297. Koso ca tuyhaṃ vipulo
koṭṭhāgārañca mayhaṃ paripūraṃ,
paṭhavī ca mayhaṃ vijitā
taṃ hitvā pabbajissāmi.
|
3297. “Kho tàng của trẫm là bao
la,
kho chứa đồ của trẫm đầy ắp,
trái đất đă được chiến thắng là thuộc về trẫm;
sau khi ĺa bỏ nó, trẫm sẽ xuất gia.” |
23. Kho tàng đầy ắp các kim
ngân,
Ta đă tạo nên đại phú cường,
Toàn cơi thế gian đều khuất phục,
Nay làm ẩn sĩ, bỏ phàm trần! |
3298. Mayhampi dhanaṃ pahūtaṃ
saṅkhyātuṃ nopi deva sakkomi,
taṃ deva te dadāmi sabbampi
ramassu mā pabbaja deva.
|
3298. “Tài sản của thần cũng dồi
dào,
tâu bệ hạ, thần cũng không thể tính đếm.
Tâu bệ hạ, thần hiến dâng mọi thứ của thần đến bệ hạ;
tâu bệ hạ, xin bệ hạ hăy vui sướng, chớ xuất gia.” |
24. Đại vương, thần tột đỉnh
giàu sang,
Chẳng đếm làm sao xiết bạc vàng,
Xin ngắm hạ thần dâng tất cả,
đứng làm ẩn sĩ, sống thư nhàn! |
Trang 212:
|
Trang 213:
|
3299. Jānāmi te dhanaṃ pahūtaṃ
kulavaḍḍhana pūjito tayā c’ asmi,
saggañca patthayāno
tenāhaṃ pabbajissāmi.
|
3299. “Trẫm biết rằng tài sản của
khanh là dồi dào,
và trẫm đă được khanh hiến dâng, này Kulavaḍḍhana.
Là người đang ước nguyện cơi Trời,
v́ thế, trẫm sẽ xuất gia.” |
25. Này hỡi Ku-la, vẫn biết rằng
Khanh mong dâng hiến cả kho tàng
Song ta hướng dịch về thiên giới
Nên khước từ nhân giới dục tham. |
3300. Ukkaṇṭhitosmi bāḷhaṃ
arati maṃ somadatta āvisati,
bahukā hi antarāyā
ajjevāhaṃ pabbajissāmi.
|
3300. “Trẫm chán ngán lắm rồi,
này (hoàng đệ) Somadatta, sự không vui sướng xâm chiếm trẫm,
bởi v́ có nhiều sự tai hại.
Trẫm sẽ xuất gia ngay ngày hôm nay.” |
|
3301. Idampi tuyhaṃ rucitaṃ
sutasoma
ajjevadāni tvaṃ pabbaja,
ahampi pabbajissāmi
na ussahe tayā vinā ahaṃ ṭhātuṃ.
|
3301. “Tâu (hoàng huynh)
Sutasoma, việc này cũng được đệ vui thích,
giờ đây, huynh hăy xuất gia ngay ngày hôm nay.
Đệ cũng sẽ xuất gia.
Không có huynh, đệ không thể nỗ lực để duy tŕ. |
|
3302. Na hi sakkā pabbajituṃ.
nagare na hi paccati janapade ca,
sutasome pabbajite
kathannudāni karissāma.
|
3302. Đúng vậy, (huynh) không thể
xuất gia,
bởi v́ ở thành thị và ở thôn quê không ai cai quản.”
“Khi (đức vua) Sutasoma đă xuất gia,
th́ (người dân) chúng tôi sẽ làm thế nào bây giờ đây?” |
|
3303. Upanīyatidaṃ maññe
parittaṃ udakaṃva caṅgavāramhi,
evaṃ suparittake jīvite
na ca pamajjituṃ kālo.
|
3303. “Trẫm nghĩ rằng mạng sống
này được đưa đi,
tựa như chút ít nước ở trên tấm màng lọc,
tương tự như vậy, khi mạng sống là vô cùng ít ỏi,
không có thời gian để xao lăng. |
|
3304. Upanīyatidaṃ maññe
parittaṃ udakaṃva caṅgavāramhi,
evaṃ suparittake jīvite
atha bālā pamajjanti.
|
3304. Trẫm nghĩ rằng mạng sống
này được đưa đi,
tựa như chút ít nước ở tấm màng lọc,
tương tự như vậy, khi mạng sống là vô cùng ít ỏi,
chỉ những kẻ ngu mới xao lăng. |
|
3305. Te vaḍḍhayanti nirayaṃ
tiracchānayoniñca pettivisayañca,
taṇhābandhanabaddhā
vaḍḍhenti asurakāyaṃ.
|
3305. Những kẻ ấy tăng thêm nhiều
ở địa ngục,
ở thai bào của súc sanh, và ở cảnh giới ngạ quỷ.
Bị trói buộc bởi sự trói buộc của tham ái,
chúng tăng thêm nhiều ở tập thể A-tu-la.” |
|
3306. Ūhaññate rajaggaṃ
avidūre pupphakamhi pāsāde,
maññe no kesā chinnā
yasassino dhammarājassa.
|
3306. “Có đám bụi mù được bốc lên
ở không xa ṭa lâu đài Pupphaka. Tôi nghĩ rằng tóc của vua công
minh có danh tiếng của chúng ta đă được cắt ĺa. |
32. Nh́n đám bụi kia chợt tỏa cao
Gần hoàng cung đại Vạn Hoa Lầu,
Chắc rằng Minh đế lừng danh vọng
Đă cắt tóc ngài với bảo đao! |
3307. Ayamassa pāsādo
sovaṇṇapupphamāpāyavītikiṇṇo,
yahimanuvicarī rājā
parikiṇṇo itthāgārehi.
|
3307. Ṭa lâu đài này là thuộc về
vị ấy,
được che phủ bởi các bông hoa bằng vàng và các tràng hoa.
Nơi đây, đức vua đă thường lui tới,
được vây quanh bởi các cung tần.
|
33. Này đây, cung điện, tháp lầu
vàng,
Lủng lẳng ṿng hoa tỏa ngát hương,
Rộn rịp bao cung tần mỹ nữ,
Ngày xưa Chúa thượng ngự du thường. |
Trang 214:
|
Trang 215:
|
3308. Ayamassa pāsādo
sovaṇṇapupphamāpāyavītikiṇṇo,
yahimanuvicarī rājā
parikiṇṇo ñātisaṅghena.
|
3308. Ṭa lâu đài này là thuộc về
vị ấy,
được che phủ bởi các bông hoa bằng vàng và các tràng hoa.
Nơi đây, đức vua đă thường lui tới,
được vây quanh bởi thân bằng quyến thuộc. |
34. Giăng mắc ṿng hoa, dát ngọc
vàng,
Ta nh́n cung điện nóc cao sang
là nơi hoàng tộc chầu bên cạnh,
Đại đế kiêu hùng bước dọc ngang. |
3309. Idamassa kūṭāgāraṃ
sovaṇṇapupphamāpāyavītikiṇṇo,
yahimanuvicarī rājā
parikiṇṇo itthāgārehi.
|
3309. Ngôi nhà mái nhọn này là
thuộc về vị ấy,
được che phủ bởi các bông hoa bằng vàng và các tràng hoa.
Nơi đây, đức vua đă thường lui tới,
được vây quanh bởi các cung tần. |
|
3310. Idamassa kūṭāgāraṃ
sovaṇṇapupphamāpāyavītikiṇṇo,
yahimanuvicarī rājā
parikiṇṇo ñātisaṅghena.
|
3310. Ngôi nhà mái nhọn này là
thuộc về vị ấy,
được che phủ bởi các bông hoa bằng vàng và các tràng hoa.
Nơi đây, đức vua đă thường lui tới,
được vây quanh bởi thân bằng quyến thuộc. |
|
3311. Ayamassa asokavanikā
supupphitā sabbakālikā rammā,
yahimanuvicarī rājā
parikiṇṇo itthāgārehi.
|
3311. Vùng đất rừng không sầu
muộn này là thuộc về vị ấy,
khéo được nở rộ hoa vào mọi thời điểm, đáng yêu.
Nơi đây, đức vua đă thường lui tới,
được vây quanh bởi các cung tần. |
|
3312. Ayamassa asokavanikā
supupphitā sabbakālikā rammā,
yahimanuvicarī rājā
parikiṇṇo ñātisaṅghena.
|
3312. Vùng đất rừng không sầu
muộn này là thuộc về vị ấy,
khéo được nở rộ hoa vào mọi thời điểm, đáng yêu.
Nơi đây, đức vua đă thường lui tới,
được vây quanh bởi thân bằng quyến thuộc. |
|
3313. Idamassa uyyānaṃ
supupphitaṃ sabbakālikaṃ rammaṃ,
yahimanuvicarī rājā
parikiṇṇo itthāgārehi.
|
3313. Vườn thượng uyển này là
thuộc về vị ấy,
khéo được nở rộ hoa vào mọi thời điểm, đáng yêu.
Nơi đây, đức vua đă thường lui tới,
được vây quanh bởi các cung tần. |
35. Đây vườn thương uyển rực
muôn hoa,
Thay đổi quanh năm với các mùa,
Rộn rịp bao cung tần mũ nữ,
Ngày xưa Chúa thượng ngự loan xa. |
3314. Idamassa uyyānaṃ
supupphitaṃ sabbakālikaṃ rammaṃ,
yahimanuvicarī rājā
parikiṇṇo ñātisaṅghena.
|
3314. Vườn thượng uyển này là
thuộc về vị ấy,
khéo được nở rộ hoa vào mọi thời điểm, đáng yêu.
Nơi đây, đức vua đă thường lui tới,
được vây quanh bởi thân bằng quyến thuộc. |
|
3315. Idamassa kaṇikāravanaṃ
supupphitaṃ sabbakālikaṃ rammaṃ,
yahimanuvicarī rājā
parikiṇṇo itthāgārehi.
|
3315. Khu rừng cây kaṇikāra
này là thuộc về vị ấy,
khéo được nở rộ hoa vào mọi thời điểm, đáng yêu.
Nơi đây, đức vua đă thường lui tới,
được vây quanh bởi các cung tần. |
|
3316. Idamassa kaṇikāravanaṃ
supupphitaṃ sabbakālikaṃ rammaṃ,
yahimanuvicarī rājā
parikiṇṇo ñātisaṅghena.
|
3316. Khu rừng cây kaṇikāra
này là thuộc về vị ấy,
khéo được nở rộ hoa vào mọi thời điểm, đáng yêu.
Nơi đây, đức vua đă thường lui tới,
được vây quanh bởi thân bằng quyến thuộc. |
|
3317. Idamassa pāṭaḷivanaṃ
supupphitaṃ sabbakālikaṃ rammaṃ,
yahimanuvicarī rājā
parikiṇṇo itthāgārehi.
|
3317. Khu rừng cây hoa kèn này là
thuộc về vị ấy,
khéo được nở rộ hoa vào mọi thời điểm, đáng yêu.
Nơi đây, đức vua đă thường lui tới,
được vây quanh bởi các cung tần. |
|
3318. Idamassa pāṭaḷivanaṃ
supupphitaṃ sabbakālikaṃ rammaṃ,
yahimanuvicarī rājā
parikiṇṇo ñātisaṅghena.
|
3318. Khu rừng cây hoa kèn này là
thuộc về vị ấy,
khéo được nở rộ hoa vào mọi thời điểm, đáng yêu.
Nơi đây, đức vua đă thường lui tới,
được vây quanh bởi thân bằng quyến thuộc. |
|
Trang 216:
|
Trang 217:
|
3319. Idamassa ambavanaṃ
supupphitaṃ sabbakālikaṃ rammaṃ,
yahimanuvicarī rājā
parikiṇṇo itthāgārehi.
|
3319. Khu rừng xoài này là thuộc
về vị ấy,
khéo được nở rộ hoa vào mọi thời điểm, đáng yêu.
Nơi đây, đức vua đă thường lui tới,
được vây quanh bởi các cung tần. |
|
3320. Idamassa ambavanaṃ
supupphitaṃ sabbakālikaṃ rammaṃ,
yahimanuvicarī rājā
parikiṇṇo ñātisaṅghena.
|
3320. Khu rừng xoài này là thuộc
về vị ấy,
khéo được nở rộ hoa vào mọi thời điểm, đáng yêu.
Nơi đây, đức vua đă thường lui tới,
được vây quanh bởi thân bằng quyến thuộc. |
|
3321. Ayamassa pokkharaṇī
sañchannā aṇḍajehi vītikiṇṇā,
yahimanuvicarī rājā
parikiṇṇo itthāgārehi.
|
3321. Hồ sen này là thuộc về vị
ấy,
được che phủ (bởi các giống cây), được lai văng bởi các loài
chim.
Nơi đây, đức vua đă thường lui tới,
được vây quanh bởi các cung tần. |
|
3322. Ayamassa pokkharaṇī
sañchannā aṇḍajehi vītikiṇṇā,
yahimanuvicarī rājā
parikiṇṇo ñātisaṅghena.
|
3322. Hồ sen này là thuộc về vị
ấy,
được che phủ (bởi các giống cây), được lai văng bởi các loài
chim.
Nơi đây, đức vua đă thường lui tới,
được vây quanh bởi thân bằng quyến thuộc. |
36. Hồ kia phủ khắp đám sen
xanh.
Nơi chốn chim muông đến lượn quanh,
Tất cả hoàng gia chầu cạnh đó,
Ngày xưa Chúa thượng vẫn du hành. |
3323. Rājā kho pabbajito
sutasomo rajjaṃ imaṃ pahatvāna,
kāsāyavatthavasano
nāgova ekakova carati.
|
3323. Quả thật, đức vua đă xuất
gia.
Sutasoma đă dứt bỏ vương quốc này,
có y phục bằng vải màu ca-sa,
tựa như con voi sống chỉ đơn độc một ḿnh.” |
37. Thật buồn thay Chúa thượng
So-ma
Đă bỏ ngai vàng để xuất gia,
Mặc chiếc hoàng y, ngài rảo bước
Như voi đơn độc lạc đường xa. |
3324. Māssu pubbe ratikīḷitāni
hasitāni anussarittha,
mā vo kāmā haniṃsu
rammaṃ hi sudassanaṃ nāma nagaraṃ.
|
3324. “Thật vậy, quư vị chớ hồi
tưởng về các lạc thú và các sự đùa giỡn, về những nụ cười trước
đây. Chớ để các dục giết chết các ngươi, bởi v́ thành phố tên
Sudassana là đáng yêu. |
38. Quên đi chuyện ái dục ngày
xưa
Khi vẻ mặt người vẫn cợt đùa,
Kẻo sợ kinh thành hoan lạc ấy
Làm bừng dục vọng, phải tiêu ma. |
3325. Mettaṃ cittañca bhāvetha
appamāṇaṃ divā ca ratto ca,
atha gañchittha devapuraṃ
āvāsaṃ puññakamminan ”ti.
|
3325. Và quư vị hăy tu tập tâm từ
ái,
vô lượng, ban ngày và ban đêm.
Rồi hăy đi đến thành phố của chư Thiên,
là nơi cư ngụ của những người có hành động phước thiện.”
|
39. Thoát người tham đắm, tự điều
thân,
Thiện ư ngày, đêm với thế nhân,
Ngươi sẽ hưởng ngôi nhà thượng giới,
Nơi người hành thiện đến chung phần.
Câu chuyện
525 |
Cullasutasomajātakaṃ.
***
|
Tiểu
Bổn Sanh
Sutasoma [525]
*** |
TASSUDDĀNAṂ
Suvapaṇḍitajambukakuṇḍalino
sarabhaṅgamalambusajātakañca,
pavaruttamasaṅkhasirivhayako
sutasoma arindama rājavaro ”ti.
|
TÓM LƯỢC NHÓM NÀY
Con chim két sáng suốt, chim Jambuka, và chim kuṇḍalinī,
bổn sanh đại ẩn sĩ Sarabhaṅga, và tiên nữ Alambusā,
Long vương cao quư tối thượng quyền uy tên Saṅkhapāla,
và chuyện đức vua Sutasoma thuần phục kẻ thù.
|
Cattāḷīsanipāto niṭṭhito.
--ooOoo--
|
Nhóm Bốn
Mươi Kệ Ngôn được chấm dứt.
--ooOoo--
|
<Trang trước> |
<Trang Kế> |