025. NIVĀPASUTTAṂ
|
025. NIVĀPASUTTAṂ
- Tạng Miến Điện by Ven. Khánh
Hỷ |
025. KINH BẪY MỒI - HT. Thích
Minh Châu, Nguồn: Budsas 7.07 |
261. Evaṃ me sutaṃ–ekaṃ samayaṃ Bhagavā Sāvatthiyaṃ
viharati Jetavane Anāthapiṇdikassa ārāme. Tatra kho Bhagavā
bhikkhū āmantesi “Bhikkhavo”ti. “Bhadante”ti te bhikkhū
Bhagavato paccassosuṃ. Bhagavā etadavoca–
|
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại
Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây, Thế Tôn
gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". --"Bạch Thế Tôn", các
Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết giảng như sau:
|
Na bhikkhave nevāpiko nivāpaṃ nivapati migajātānaṃ “Imaṃ me
nivāpaṃ nivuttaṃ migajātā paribhuñjantā dīghāyukā vaṇṇavanto
ciraṃ dīghamaddhānaṃ yāpentū”ti. Evañca kho bhikkhave nevāpiko
nivāpaṃ nivapati migajātānaṃ “Imaṃ me nivāpaṃ nivuttaṃ migajātā
anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjissanti, anupakhajja
mucchitā bhojanāni bhuñjamānā madaṃ āpajjissanti, mattā samānā
pamādaṃ āpajjissanti, pamattā samānā yathākāmakaraṇīyā
bhavissanti imasmiṃ nivāpe”ti.
|
-- Chư Tỷ-kheo, người thợ săn
bẫy mồi khi gieo đồ mồi cho đàn nai không nghĩ rằng: "Ta gieo đồ
mồi này cho đoàn nai ăn để đàn ấy được sống lâu, được tốt đẹp
thêm và được nuôi dưỡng lâu dài hơn". Chư Tỷ-kheo, người thợ săn
bẫy mồi khi gieo đồ mồi cho đàn nai nghĩ rằng: "Ta gieo đồ mồi
này cho đàn nai, để đàn này xâm nhập, tham đắm ăn các món ăn.
Sau khi xâm nhập, tham đắm ăn các món ăn, chúng trở thành mê
loạn; do mê loạn, chúng trở thành phóng dật; do phóng dật chúng
trở thành những vật bị làm theo ư người ta muốn, giữa các đồ mồi
này".
|
262. Tatra bhikkhave paṭhamā migajātā amuṃ nivāpaṃ
nivuttaṃ nevāpikassa anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjiṃsu.
Te tattha anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjamānā madaṃ
āpajjiṃsu, mattā samānā pamādaṃ āpajjiṃsu, pamattā samānā
yathākāmakaraṇīyā ahesuṃ nevāpikassa amusmiṃ nivāpe. Evaṃ hi te
bhikkhave paṭhamā migajātā na parimucciṃsu nevāpikassa
iddhānubhāvā.
|
Ở đây, này các Tỷ-kheo, đàn nai
đầu tiên xâm nhập, tham đắm, ăn các đồ mồi này do người thợ săn
bẫy mồi gieo ra. Chúng xâm nhập, tham đắm ăn các đồ mồi, nên trở
thành mê loạn. Do mê loạn, chúng trở thành phóng dật. Do phóng
dật, chúng trở thành những vật bị làm theo ư người ta muốn giữa
các đồ mồi này của người thợ săn bẫy mồi. Chư Tỷ-kheo, như vậy
đàn nai đầu tiên này không thoát khỏi như ư lực của người thợ
săn bẫy mồi.
|
263. Tatra bhikkhave dutiyā migajātā evaṃ
samacintesuṃ “Ye kho te paṭhamā migajātā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ
nevāpikassa anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjiṃsu, te tattha
anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjamānā madaṃ āpajjiṃsu, mattā
samānā pamādaṃ āpajjiṃsu, pamattā samānā yathākāmakaraṇīyā
ahesuṃ nevāpikassa amusmiṃ nivāpe. Evaṃ hi te paṭhamā migajātā
na parimucciṃsu nevāpikassa iddhānubhāvā. Yaṃnūna mayaṃ sabbaso
nivāpabhojanā paṭivirameyyāma, bhayabhogā paṭiviratā
araññāyatanāni ajjhogāhetvā vihareyyāmā”ti. Te sabbaso
nivāpabhojanā paṭiviramiṃsu, bhayabhogā paṭiviratā
araññāyatanāni ajjhogāhetvā vihariṃsu. Tesaṃ gimhānaṃ pacchime
māse tiṇodakasaṅkhaye adhimattakasimānaṃ patto kāyo hoti. Tesaṃ
adhimattakasimānaṃ pattakāyānaṃ balavīriyaṃ parihāyi. Balavīriye
parihīne tameva nivāpaṃ nivuttaṃ nevāpikassa paccāgamiṃsu. Te
tattha anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjiṃsu. Te tattha
anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjamānā madaṃ āpajjiṃsu, mattā
samānā pamādaṃ āpajjiṃsu, pamattā samānā yathākāmakaraṇīyā
ahesuṃ nevāpikassa amusmiṃ nivāpe. Evaṃ hi te bhikkhave dutiyāpi
migajātā na parimucciṃsu nevāpikassa iddhānubhāvā.
|
Ở đây, này các Tỷ-kheo, đàn nai
thứ hai suy nghĩ như sau: "Đàn nai đầu tiên này xâm nhập, tham
đắm, ăn các đồ mồi này do người thợ săn bẫy mồi gieo ra. Chúng ở
đây xâm nhập, tham đắm, ăn các đồ mồi, nên trở thành mê loạn. Do
mê loạn, chúng trở thành phóng dật. Do phóng dật, chúng trở
thành những vật bị làm theo ư người ta muốn giữa các đồ mồi này
của người thợ săn bẫy mồi. Như vậy, đàn nai đầu tiên không thoát
khỏi như ư lực của người thợ săn bẫy mồi. Vậy chúng ta hăy hoàn
toàn từ bỏ các đồ mồi, từ bỏ các vật dụng đáng sợ hăi, đi sâu
vào rừng và an trú". Rồi đàn nai ấy hoàn toàn từ bỏ các đồ mồi,
từ bỏ các vật dụng đáng sợ hăi, đi sâu vào rừng và an trú. Cuối
tháng mùa hạ, cỏ nước khan hiếm, thân h́nh đàn nai ấy trở thành
hết sức gầy yếu. V́ thân h́nh đàn nai ấy trở thành hết sức gầy
yếu, sức lực của chúng bị kiệt quệ. V́ sức lực bị kiệt quệ, đàn
nai ấy trở lại các đồ mồi của người thợ săn bẫy mồi gieo ra.
Chúng ở đây xâm nhập, tham đắm, ăn các đồ mồi. V́ chúng ở đây
xâm nhập, tham đắm, ăn các đồ mồi, nên trở thành mê loạn. Do mê
loạn, chúng trở thành phóng dật. Do phóng dật, chúng trở thành
những vật bị làm theo ư người ta muốn giữa các đồ mồi này của
người thợ săn bẫy mồi. Như vậy đàn nai thứ hai không thoát khỏi
như ư lực của người thợ săn bẫy mồi.
|
264. Tatra
bhikkhave tatiyā migajātā evaṃ samacintesuṃ “Ye kho te paṭhamā
migajātā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ nevāpikassa. Pa . Evaṃ hi te
paṭhamā migajātā na parimucciṃsu nevāpikassa iddhānubhāvā. Yepi
te dutiyā migajātā evaṃ samacintesuṃ ‘Ye kho te paṭhamā migajātā
amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ nevāpikassa. Pa . Evaṃ hi te paṭhamā
migajātā na parimucciṃsu nevāpikassa iddhānubhāvā. Yaṃnūna mayaṃ
sabbaso nivāpabhojanā paṭivirameyyāma, bhayabhogā paṭiviratā
araññāyatanāni ajjhogāhetvā vihareyyāmā’ti. Te sabbaso
nivāpabhojanā paṭiviramiṃsu, bhayabhogā paṭiviratā
araññāyatanāni ajjhogāhetvā vihariṃsu. Tesaṃ gimhānaṃ pacchime
māse tiṇodakasaṅkhaye adhimattakasimānaṃ patto kāyo hoti. Tesaṃ
adhimattakasimānaṃ pattakāyānaṃ balavīriyaṃ parihāyi. Balavīriye
parihīne tameva nivāpaṃ nivuttaṃ nevāpikassa paccāgamiṃsu. Te
tattha anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjiṃsu. Te tattha
anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjamānā madaṃ āpajjiṃsu, mattā
samānā pamādaṃ āpajjiṃsu, pamattā samānā yathākāmakaraṇīyā
ahesuṃ nevāpikassa amusmiṃ nivāpe. Evaṃ hi te dutiyāpi migajātā
na parimucciṃsu nevāpikassa iddhānubhāvā. Yaṃnūna mayaṃ amuṃ
nivāpaṃ nivuttaṃ nevāpikassa upanissāya āsayaṃ kappeyyāma,
tatrāsayaṃ kappetvā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ nevāpikassa
ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjissāma, ananupakhajja
amucchitā bhojanāni bhuñjamānā na madaṃ āpajjissāma. Amattā
samānā na pamādaṃ āpajjissāma, appamattā samānā na
yathākāmakaraṇīyā bhavissāma nevāpikassa amusmiṃ nivāpe”ti. Te
amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ nevāpikassa upanissāya āsayaṃ kappayiṃsu.
Tatrāsayaṃ kappetvā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ nevāpikassa
ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjiṃsu. Te tattha
ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjamānā na madaṃ āpajjiṃsu,
amattā samānā na pamādaṃ āpajjiṃsu, appamattā samānā na
yathākāmakaraṇīyā ahesuṃ nevāpikassa amusmiṃ nivāpe.
|
Ở đây, này các Tỷ-kheo, đàn nai
thứ ba suy nghĩ như sau: "Đàn nai đầu tiên này xâm nhập tham
đắm, ăn các đồ mồi này của người thợ săn bẫy mồi gieo ra. Chúng
ở đây xâm nhập, tham đắm, ăn các đồ mồi, nên trở thành mê loạn.
Do mê loạn, chúng trở thành phóng dật. Do phóng dật, chúng trở
thành những vật bị làm theo ư người ta muốn giữa các đồ mồi này
của người thợ săn bẫy mồi. Như vậy, đàn nai đầu tiên này không
thoát khỏi như ư lực của người thợ săn bẫy mồi. C̣n đàn nai thứ
hai này suy nghĩ như sau: "Đàn nai đầu tiên này xâm nhập, tham
đắm, ăn các đồ mồi này của người thợ săn bẫy mồi... (như
trên)... Như vậy đàn nai đầu tiên này không thoát khỏi như ư lực
của người thợ săn bẫy mồi. Vậy chúng ta hăy hoàn toàn từ bỏ các
món ăn bẫy mồi, từ bỏ các vật dụng đáng sợ hăi, đi sâu vào rừng
và an trú". Rồi đàn nai ấy hoàn toàn từ bỏ các món ăn bẫy mồi,
từ bỏ các vật dụng đáng sợ hăi, đi sâu vào rừng và an trú. Cuối
tháng mùa hạ, cỏ nước khan hiếm, thân h́nh đàn nai ấy trở thành
hết sức gầy yếu. V́ thân h́nh đàn nai ấy trở thành hết sức gầy
yếu, sức lực của chúng bị kiệt quệ. V́ sức lực bị kiệt quệ, đàn
nai ấy trở lại các đồ mồi ấy do người thợ săn bẫy mồi gieo ra.
Chúng ở đây xâm nhập tham đắm ăn các đồ mồi. V́ chúng ở đây xâm
nhập tham đắm ăn các đồ mồi, nên trở thành mê loạn. Do mê loạn,
chúng trở thành phóng dật. Do phóng dật, chúng trở thành những
vật bị làm theo ư người ta muốn giữa các đồ mồi này của người
thợ săn bẫy mồi. Như vậy đàn nai thứ hai không thoát khỏi như ư
lực của người thợ săn bẫy mồi. Nay chúng ta hăy làm một chỗ ẩn
nấp gần các đồ mồi này của người thợ săn bẫy mồi. Sau khi làm
chỗ ẩn nấp xong, không xâm nhập, không tham đắm, chúng ta sẽ ăn
các đồ mồi ấy do người thợ săn bẫy mồi gieo ra. V́ không xâm
nhập không tham đắm ăn các món ăn, chúng ta sẽ không mê loạn. Do
không mê loạn, chúng ta sẽ không phóng dật. Do không phóng dật,
chúng ta sẽ không trở thành những vật bị làm theo ư người ta
muốn giữa các đồ mồi của người thợ săn bẫy mồi". Rồi chúng làm
một chỗ ẩn nấp gần các đồ mồi này của người thợ săn bẫy mồi. Sau
khi làm chỗ ẩn nấp xong, không xâm nhập, không tham đắm, chúng
ăn các đồ mồi ấy do người thợ săn bẫy mồi gieo ra. V́ không xâm
nhập, không tham đắm ăn các món ăn, nên chúng không mê loạn. Do
không mê loạn, chúng không phóng dật. Do không phóng dật, chúng
không trở thành những vật bị làm theo ư người ta muốn giữa các
đồ mồi này của người thợ săn bẫy mồi.
|
Tatra bhikkhave
nevāpikassa ca nevāpikaparisāya ca etadahosi “Saṭhāssunāmime
tatiyā migajātā ketabino, iddhimantāssunāmime tatiyā migajātā
parajanā. Imañca nāma nivāpaṃ nivuttaṃ paribhuñjanti, na ca
nesaṃ jānāma āgatiṃ vā gatiṃ vā. Yaṃnūna mayaṃ imaṃ nivāpaṃ
nivuttaṃ mahatīhi daṇdavākarāhi (Daṇdavāgurāhi
- Syā)
samantā sappadesaṃ
anuparivāreyyāma appeva nāma tatiyānaṃ migajātānaṃ āsayaṃ
passeyyāma, yattha te gāhaṃ gaccheyyun”ti, te amuṃ nivāpaṃ
nivuttaṃ mahatīhi daṇdavākarāhi samantā sappadesaṃ
anuparivāresuṃ. Addasaṃsu kho bhikkhave nevāpiko ca
nevāpikaparisā ca tatiyānaṃ migajātānaṃ āsayaṃ, yattha te gāhaṃ
agamaṃsu. Evaṃ hi te bhikkhave tatiyāpi migajātā na parimucciṃsu
nevāpikassa iddhānubhāvā.
|
-- Ở đây, này các Tỷ-kheo, người
thợ săn bẫy mồi và quyến thuộc người thợ săn bẫy mồi suy nghĩ
như sau: "Đàn nai thứ ba này thật tinh khôn, xảo quyệt. Đàn nai
thứ ba này thật có thần lực và ma quái. Chúng ăn các đồ mồi được
gieo ra này, mà chúng ta không được biết đường đi lối về của
chúng. Vậy chúng ta hăy bao vây xung quanh các đồ mồi được gieo
này, với những cây cột to lớn và những bẫy sập cùng khắp mọi
nơi. Rồi chúng ta có thể thấy được chỗ ẩn nấp của đàn nai thứ ba
này, chỗ chúng có thể đi để lấy đồ ăn". Rồi họ bao vây xung
quanh các đồ mồi được gieo này với những cây cột to lớn và những
bẫy sập cùng khắp mọi nơi. Này các Tỷ-kheo, người thợ săn bẫy
mồi và những người quyến thuộc người thợ săn bẫy mồi thấy được
chỗ ẩn nấp của đàn nai thứ ba, chỗ chúng đi để lấy đồ ăn. Như
vậy này các Tỷ-kheo, đàn nai thứ ba này không thoát được như ư
lực của người thợ săn bẫy mồi.
|
265. Tatra bhikkhave catutthā migajātā evaṃ
samacintesuṃ–ye kho te paṭhamā migajātā. Pa . Evaṃ hi te paṭhāmā
migajātā na parimucciṃsu nevāpikassa iddhānubhāvā. Yepi te
dutiyā migajātā evaṃ samacintesuṃ “Ye kho te paṭhamā migajātā.
Pa . Evaṃ hi te paṭhamā migajātā na parimucciṃsu nevāpikassa
iddhānubhāvā. Yaṃnūna mayaṃ sabbaso nivāpabhojanā
paṭivirameyyāma, bhayabhogā paṭiviratā araññāyatanāni
ajjhogāhetvā vihareyyāmā”ti. Te sabbaso nivāpabhojanā
paṭiviramiṃsu. Pa . Evaṃ hi te dutiyāpi migajātā na parimucciṃsu
nevāpikassa iddhānubhāvā. Yepi te tatiyā migajātā evaṃ
samacintesuṃ “Ye kho te paṭhamā migajātā. Pa . Evaṃ hi te
paṭhamā migajātā na parimucciṃsu nevāpikassa iddhānubhāvā. Yepi
te dutiyā migajātā evaṃ samacintesuṃ ‘Ye kho te paṭhamā
migajātā. Pa . Evaṃ hi te paṭhamā migajātā na parimucciṃsu
nevāpikassa iddhānubhāvā. Yaṃnūna mayaṃ sabbaso nivāpabhojanā
paṭivirameyyāma, bhayabhogā paṭiviratā araññāyatanāni
ajjhogāhetvā vihareyyāmā’ti. Te sabbaso nivāpabhojanā
paṭiviramiṃsu. Pa . Evaṃ hi te dutiyāpi migajātā na parimucciṃsu
nevāpikassa iddhānubhāvā. Yaṃnūna mayaṃ amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ
nevāpikassa upanissāya āsayaṃ kappeyyāma, tatrāsayaṃ kappetvā
amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ nevāpikassa ananupakhajja amucchitā
bhojanāni bhuñjissāma, ananupakhajja amucchitā bhojanāni
bhuñjamānā na madaṃ āpajjissāma, amattā samānā na pamādaṃ
āpajjissāma, appamattā samānā na yathākāmakaraṇīyā bhavissāma
nevāpikassa amusmiṃ nivāpe”ti. Te amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ
nevāpikassa upanissāya āsayaṃ kappayiṃsu, tatrāsayaṃ kappetvā
amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ nevāpikassa ananupakhajja amucchitā
bhojanāni bhuñjiṃsu, te tattha ananupakhajja amucchitā bhojanāni
bhuñjamānā na madaṃ āpajjiṃsu, amattā samānā na pamādaṃ
āpajjiṃsu, appamattā samānā na yathākāmakaraṇīyā ahesuṃ
nevāpikassa amusmiṃ nivāpe. Tatra nevāpikassa ca
nevāpikaparisāya ca etadahosi “Saṭhāssunāmime tatiyā migajātā
ketabino, iddhimantāssunāmime tatiyā migajātā parajanā, imañca
nāma nivāpaṃ nivuttaṃ paribhuñjanti. Na ca nesaṃ jānāma āgatiṃ
vā gatiṃ vā. Yaṃnūna mayaṃ imaṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mahatīhi
daṇdavākarāhi samantā sappadesaṃ anuparivāreyyāma, appeva nāma
tatiyānaṃ migajātānaṃ āsayaṃ passeyyāma, yattha te gāhaṃ
gaccheyyun”ti. Te amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mahatīhi daṇdavākarāhi
samantā sappadesaṃ anuparivāresuṃ. Addasaṃsu kho nevāpiko ca
nevāpikaparisā ca tatiyānaṃ migajātānaṃ āsayaṃ, yattha te gāhaṃ
agamaṃsu. Evaṃ hi te tatiyāpi migajātā na parimucciṃsu
nevāpikassa iddhānubhāvā. Yaṃnūna mayaṃ yattha agati nevāpikassa
ca nevāpikaparisāya ca, tatrāsayaṃ kappeyyāma, tatrāsayaṃ
kappetvā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ nevāpikassa ananupakhajja
amucchitā bhojanāni bhuñjissāma, ananupakhajja amucchitā
bhojanāni bhuñjamānā na madaṃ āpajjissāma, amattā samānā na
pamādaṃ āpajjissāma, appamattā samānā na yathākāmakaraṇīyā
bhavissāma nevāpikassa amusmiṃ nivāpeti. Te yattha agati
nevāpikassa ca nevāpikaparisāya ca, tatrāsayaṃ kappayiṃsu,
tatrāsayaṃ kappetvā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ nevāpikassa
ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjiṃsu, te tattha
ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjamānā na madaṃ āpajjiṃsu,
amattā samānā na pamādaṃ āpajjiṃsu, appamattā samānā na
yathākāmakaraṇīyā ahesuṃ nevāpikassa amusmiṃ nivāpe.
|
Ở đây, này các Tỷ-kheo, đàn nai
thứ tư suy nghĩ như sau: "Đàn nai đầu tiên này xâm nhập tham
đắm, ăn các đồ mồi này của người thợ săn bẫy mồi... (như
trên)... Như vậy đàn nai đầu tiên này không thoát khỏi như ư lực
của người thợ săn bẫy mồi. C̣n đàn nai thứ hai này suy nghĩ như
sau: "Đàn nai đầu tiên này xâm nhập tham đắm, ăn các đồ mồi này
của người thợ săn bẫy mồi... (như trên)... Như vậy đoàn nai đầu
tiên này không thoát khỏi như ư lực của người thợ săn bẫy mồi.
Vậy chúng ta hăy... (như trên)...". Như vậy đàn nai thứ hai này
không thoát khỏi như ư lực của người thợ săn bẫy mồi. Đàn nai
thứ ba suy nghĩ như sau: "Đàn nai đầu tiên xâm nhập tham đắm, ăn
các đồ mồi này của người thợ săn bẫy mồi... (như trên)... Như
vậy đàn nai đầu tiên này không thoát khỏi như ư lực của người
thợ săn bẫy mồi. C̣n đàn nai thứ hai này suy nghĩ như sau: "Đàn
nai đầu tiên này xâm nhập tham đắm ăn các đồ mồi này của người
thợ săn bẫy mồi... Như vậy, đàn nai đầu tiên này không thoát
khỏi như ư lực của người thợ săn bẫy mồi. Vậy chúng ta hăy...
(như trên)...". Như vậy đàn nai thứ hai này không thoát khỏi như
ư lực của người thợ săn bẫy mồi. Vậy chúng ta hăy làm một chỗ ẩn
nấp gần các đồ mồi này của người thợ săn bẫy mồi. Sau khi làm
chỗ ẩn nấp xong, không xâm nhập, không tham đắm chúng ta sẽ ăn
các đồ mồi ấy do người thợ săn gieo ra. V́ không xâm nhập, không
tham đắm, ăn các món ăn, chúng ta sẽ không mê loạn. Do không mê
loạn, chúng ta sẽ không phóng dật. Do không phóng dật, chúng ta
sẽ không trở thành những vị bị làm theo ư người ta muốn giữa
những đồ mồi của người thợ săn bẫy mỗi". Rồi chúng làm một chỗ
ẩn nấp gần các đồ mồi này của người thợ săn bẫy mồi. Sau khi làm
chỗ ẩn nấp xong, không xâm nhập, không tham đắm, chúng ăn các đồ
mồi ấy do người thợ săn bẫy mồi gieo ra. V́ không xâm nhập,
không tham đắm ăn các món ăn, chúng không mê loạn. Do không mê
loạn, chúng không phóng dật. Do không phóng dật, chúng không trở
thành những vật bị làm theo ư người ta muốn giữa những đồ mồi
này của người thợ săn bẫy mồi. Ở đây, người thợ săn bẫy mồi và
những quyến thuộc của người ấy suy nghĩ như sau: "Đàn nai thứ ba
này thật tinh khôn, xảo quyệt. Đàn nai thứ ba này thật có thần
lực và ma quái. Chúng ăn các đồ mồi được gieo ra mà chúng ta
không được biết đường đi lối về của chúng. Vậy chúng ta hăy bao
vây xung quanh các đồ mồi được gieo này với những cây cột to lớn
và những bẫy sập cùng khắp mọi nơi. Rồi chúng ta có thể thấy
được chỗ ẩn nấp của đàn nai thứ ba này, chỗ chúng có thể đi để
lấy đồ ăn". Rồi họ bao vây xung quanh các đồ mồi được gieo này
với những cây cột to lớn và những bẫy sập cùng khắp mọi nơi.
Người thợ săn bẫy mồi và những quyến thuộc của người ấy thấy
được chỗ ẩn nấp của đàn nai thứ ba, chỗ chúng đi để lấy đồ ăn.
Như vậy đàn nai thứ ba ấy đă không thoát khỏi như ư lực của
người thợ săn bẫy mồi. Vậy chúng ta hăy làm một chỗ ẩn nấp, tại
một nơi mà người thợ săn bẫy mồi và những quyến thuộc của người
ấy không thể đến được. Làm chỗ ẩn nấp tại đó xong, không xâm
nhập, không tham đắm, chúng ta sẽ ăn các đồ mồi do người thợ săn
bẫy mồi gieo ra. V́ không xâm nhập, không tham đắm ăn các món
ăn, chúng ta sẽ không mê loạn. Do không mê loạn, chúng ta sẽ
không phóng dật. Do không phóng dật, chúng ta sẽ không trở thành
những vật bị làm theo ư người ta muốn giữa các đồ mồi của người
thợ săn bẫy mồi". Rồi đàn nai thứ tư làm một chỗ ẩn nấp tại một
nơi mà người thợ săn bẫy mồi và những quyến thuộc của người ấy
không thể đến được. Làm chỗ ẩn nấp tại đó xong, không xâm nhập,
không tham đắm, chúng ăn các đồ mồi do người thợ săn bẫy mồi
gieo ra. V́ không xâm nhập, không tham đắm ăn các món ăn, chúng
không trở thành mê loạn. Do không mê loạn, chúng không trở thành
phóng dật. Do không phóng dật, chúng không trở thành những vật
bị làm theo ư người ta muốn giữa các đồ mồi của người thợ săn
bẫy mồi.
|
Tatra bhikkhave nevāpikassa ca nevāpikaparisāya ca
etadahosi “Saṭhāssunāmime catutthā migajātā ketabino,
iddhimantāssunāmime catutthā migajātā parajanā, imañca nāma
nivāpaṃ nivuttaṃ paribhuñjanti. Na ca nesaṃ jānāma āgatiṃ vā
gatiṃvā. Yaṃnūna mayaṃ imaṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mahatīhi
daṇdavākarāhi samantā sappadesaṃ anuparivāreyyāma, appeva nāma
catutthānaṃ migajātānaṃ āsayaṃ passeyyāma, yattha te gāhaṃ
gaccheyyun”ti. Te amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mahatīhi daṇdavākarāhi
samantā sappadesaṃ anuparivāresuṃ. Neva kho bhikkhave addasaṃsu
nevāpiko ca nevāpikaparisā ca catutthānaṃ migajātānaṃ āsayaṃ,
yattha te gāhaṃ gaccheyyuṃ. Tatra bhikkhave nevāpikassa ca
nevāpikaparisāya ca etadahosi “Sace kho mayaṃ catutthe migajāte
ghaṭṭessāma. Te ghaṭṭitā aññe ghaṭṭissanti. Te ghaṭṭitā aññe
ghaṭṭissanti. Evaṃ imaṃ nivāpaṃ nivuttaṃ sabbaso migajātā
parimuñcissanti. Yaṃnūna mayaṃ catutthe migajāte
ajjhupekkheyyāmā”ti. Ajjhupekkhiṃsu kho bhikkhave nevāpiko ca
nevāpikaparisā ca catutthe migajāte. Evaṃ hi te bhikkhave
catutthā migajātā parimucciṃsu nevāpikassa iddhānubhāvā.
|
Ở đây, này các Tỷ-kheo, người
thợ săn bẫy mồi và những quyến thuộc của người ấy suy nghĩ như
sau: "Đàn nai thứ tư này thật tinh khôn, xảo quyệt. Đàn nai thứ
tư này thật có thần lực và ma quái. Và chúng ăn các đồ mồi được
gieo ra mà chúng ta không biết được đường đi lối về của chúng.
Vậy chúng ta hăy bao vây xung quanh các đồ mồi được gieo này với
những cây cột to lớn và những bẫy sập cùng khắp mọi nơi. Rồi
chúng ta có thể thấy được chỗ ẩn nấp của đàn nai thứ tư này, chỗ
chúng có thể đi để lấy đồ ăn". Rồi họ bao vây xung quanh các đồ
mồi được gieo này với những cây cột to lớn và những bẫy sập cùng
khắp mọi nơi. Nhưng này các Tỷ-kheo, người thợ săn bẫy mồi và
những quyến thuộc của người ấy đă không thấy được chỗ ẩn nấp của
đàn nai thứ tư này, chỗ chúng có thể đi để lấy đồ ăn. Ở đây, này
các Tỷ-kheo, người thợ săn và những quyến thuộc của người ấy lại
suy nghĩ như sau: "Nếu chúng ta đánh phá đàn nai thứ tư này,
chúng bị đánh phá sẽ đánh phá các đàn nai khác; các đàn nai khác
bị đánh phá sẽ đánh phá các đàn nai khác nữa. Như vậy toàn thể
đàn nai sẽ từ bỏ các đồ mồi được gieo này. Vậy chúng ta chớ có
can thiệp vào đàn nai thứ tư". Này các Tỷ-kheo, người thợ săn
bẫy mồi và những quyến thuộc của người ấy không can thiệp vào
đàn nai thứ tư. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đàn nai thứ tư đă
thoát khỏi như ư lực của người thợ săn bẫy mồi.
|
266. Upamā kho me ayaṃ bhikkhave katā atthassa
viññāpanāya. Ayaṃ cevettha attho. “Nivāpo”ti kho bhikkhave
pañcannetaṃ kāmaguṇānaṃ adhivacanaṃ. “Nevāpiko”ti kho bhikkhave
mārassetaṃ pāpimato adhivacanaṃ. “Nevāpikaparisā”ti kho
bhikkhave māraparisāyetaṃ adhivacanaṃ. “Migajātā”ti kho
bhikkhave samaṇabrāhmaṇānametaṃ adhivacanaṃ.
|
Này các Tỷ-kheo, tỷ dụ này được
Ta dùng để giải thích ư nghĩa. Và ư nghĩa ở đây là như sau: Chư
Tỷ-kheo, đồ mồi đồng nghĩa với năm dục trưởng dưỡng. Chư
Tỷ-kheo, người thợ săn bẫy mồi đồng nghĩa với Ác ma. Chư
Tỷ-kheo, các quyến thuộc của người thợ săn bẫy mồi đồng nghĩa
với quyến thuộc của Ác ma. Chư Tỷ-kheo, các đàn nai đồng nghĩa
với các Sa-môn, Bà-la-môn.
|
267. Tatra bhikkhave paṭhamā samaṇabrāhmaṇā amuṃ
nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa amūni ca lokāmisāni anupakhajja
mucchitā bhojanāni bhuñjiṃsu, te tattha anupakhajja mucchitā
bhojanāni bhuñjamānā madaṃ āpajjiṃsu, mattā samānā pamādaṃ
āpajjiṃsu, pamattā samānā yathākāmakaraṇīyā ahesuṃ mārassa
amusmiṃ nivāpe, amusmiṃ ca lokāmise. Evaṃ hi te bhikkhave
paṭhamā samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā.
Seyyathāpi te bhikkhave paṭhamā migajātā, tathūpame ahaṃ ime
paṭhame samaṇabrāhmaṇe vadāmi.
|
Ở đây, này các Tỷ-kheo, hạng
Sa-môn, Bà-la-môn đầu tiên xâm nhập, tham đắm ăn các đồ mồi do
Ác ma gieo ra và các vật dụng thế gian. Ở đây, họ xâm nhập, tham
đắm ăn các món ăn, nên trở thành mê loạn; v́ mê loạn, họ trở
thành phóng dật; v́ phóng dật, họ trở thành những người bị làm
theo ư Ác ma muốn giữa các đồ mồi này và giữa các vật dụng thế
gian. Như vậy, này các Tỷ-kheo, hạng Sa-môn, Bà-la-môn đầu tiên
này không thoát được như ư lực của Ác ma. Này các Tỷ-kheo, Ta
nói hạng Sa-môn, Bà-la-môn đầu tiên này giống như đàn nai đầu
tiên trong thí dụ. |
268. Tatra bhikkhave dutiyā samaṇabrāhmaṇā evaṃ
samacintesuṃ “Ye kho te paṭhamā samaṇabrāhmaṇā amuṃ nivāpaṃ
nivuttaṃ mārassa amūni ca lokāmisāni anupakhajja mucchitā
bhojanāni bhuñjiṃsu. Te tattha anupakhajja mucchitā bhojanāni
bhuñjamānā madaṃ āpajjiṃsu, mattā samānā pamādaṃ āpajjiṃsu,
pamattā samānā yathākāmakaraṇīyā ahesuṃ mārassa amusmiṃ nivāpe,
amusmiṃ ca lokāmise. Evaṃ hi te paṭhamā samaṇabrāhmaṇā na
parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā. Yaṃnūna mayaṃ sabbaso
nivāpabhojanā lokāmisā paṭivirameyyāma, bhayabhogā paṭiviratā
araññayatanāni ajjhogāhetvā vihareyyāmā”ti. Te sabbaso
nivāpabhojanā lokāmisā paṭiviramiṃsu, bhayabhogā paṭiviratā
araññāyatanāni ajjhogāhetvā vihariṃsu. Te tattha sākabhakkhāpi
ahesuṃ, sāmākabhakkhāpi ahesuṃ, nīvārabhakkhāpi ahesuṃ,
daddulabhakkhāpi ahesuṃ, haṭabhakkhāpi ahesuṃ, kaṇabhakkhāpi
ahesuṃ, ācāmabhakkhāpi ahesuṃ, piññākabhakkhāpi ahesuṃ,
tiṇabhakkhāpi ahesuṃ, gomayabhakkhāpi ahesuṃ, vanamūlaphalāhārā
yāpesuṃ pavattaphalabhojī. |
Ở đây, này các Tỷ-kheo, hạng
Sa-môn, Bà-la-môn thứ hai suy nghĩ như sau: "Hạng Sa-môn,
Bà-la-môn đầu tiên này đă xâm nhập, tham đắm ăn các đồ mồi do Ác
ma gieo ra, và các vật dụng thế gian. Ở đây, họ xâm nhập, tham
đắm ăn các món ăn, nên trở thành mê loạn; v́ mê loạn, họ trở
thành phóng dật; v́ phóng dật, họ trở thành những người bị làm
theo ư Ác ma muốn giữa các đồ mồi ấy và giữa các vật dụng thế
gian. Như vậy, hạng Sa-môn, Bà-la-môn đầu tiên này đă không
thoát khỏi như ư lực của Ác ma. Vậy, chúng ta hăy hoàn toàn từ
bỏ các đồ mồi và các vật dụng thế gian, từ bỏ các vật dụng đáng
sợ hăi, đi sâu vào rừng và an trú". Họ hoàn toàn từ bỏ các đồ
mồi, các vật dụng thế gian, từ bỏ các vật dụng đáng sợ hăi, đi
sâu vào rừng và an trú. Ở đây, họ trở thành những người ăn cỏ
lúa, ăn lúa tắc, những người ăn gạo lức, những người ăn hột cải
Nivara, những người ăn da vụn, những người ăn trấu, những người
ăn nước bột gạo, những người ăn hột vừng, những người ăn cỏ,
những người ăn phân ḅ, những người ăn trái cây, những người ăn
rễ cây trong rừng, những người ăn trái cây rụng để sống. |
Tesaṃ gimhānaṃ pacchime māse
tiṇodakasaṅkhaye adhimattakasimānaṃ patto kāyo hoti, tesaṃ
adhimattakasimānaṃ pattakāyānaṃ balavīriyaṃ parihāyi, balavīriye
parihīne cetovimutti parihāyi, cetovimuttiyā parihīnāya tameva
nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa paccāgamiṃsu tāni ca lokāmisāni. Te
tattha anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjiṃsu, te tattha
anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjamānā madaṃ āpajjiṃsu, mattā
samānā pamādaṃ āpajjiṃsu, pamattā samānā yathākāmakaraṇīyā
ahesuṃ mārassa amusmiṃ nivāpe, amusmiṃ ca lokāmise. Evaṃ hi te
bhikkhave dutiyāpi samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsu mārassa
iddhānubhāvā. Seyyathāpi te bhikkhave dutiyā migajātā, tathūpame
ahaṃ ime dutiye samaṇabrāhmaṇe vadāmi.
|
Cuối tháng mùa hạ, cỏ nước trở
thành khan hiếm, thân h́nh của hạng Sa-môn, Bà-la-môn ấy trở
thành hết sức gầy yếu. V́ thân h́nh hạng Sa-môn, Bà-la-môn ấy
trở thành hết sức gầy yếu, nên sức lực tinh tấn của họ bị kiệt
quệ. V́ sức lực tinh tấn bị kiệt quệ, nên tâm giải thoát bị kiệt
quệ. V́ tâm giải thoát bị kiệt quệ, họ trở lui lại các đồ mồi do
Ác ma gieo ra và các vật dụng thế gian. Ở đây, họ xâm nhập, tham
đắm ăn các món ăn. Do ở đây xâm nhập, tham đắm ăn các món ăn,
chúng trở thành mê loạn. Do mê loạn, họ trở thành phóng dật. Do
phóng dật, họ trở thành những người bị làm theo ư Ác ma muốn
giữa các đồ mồi này và giữa các vật dụng thế gian. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ hai này đă không thoát
khỏi như ư lực của Ác ma. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng hạng
Sa-môn, Bà-la-môn thứ hai này giống như đàn nai thứ hai trong ví
dụ này.
|
269. Tatra bhikkhave tatiyā samaṇabrāhmaṇā evaṃ
samacintesuṃ “Ye kho te paṭhamā samaṇabrāhmaṇā amuṃ nivāpaṃ
nivāttaṃ mārassa amūni ca lokāmisāni. Pa . Evaṃ hi te paṭhamā
samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā. Yepi te
dutiyā samaṇabrāhmaṇā evaṃ samacintesuṃ ‘Ye kho te paṭhamā
samaṇabrāhmaṇā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa amūni ca
lokāmisāni. Pa . Evaṃ hi te paṭhamā samaṇabrāhmaṇā na
parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā. Yaṃnūna mayaṃ sabbaso
nivāpabhojanā lokāmisā paṭivirameyyāma, bhayabhogā paṭiviratā
araññāyatanāni ajjhogāhetvā vihareyyāmā’ti. Te sabbaso
nivāpabhojanā lokāmisā paṭiviramiṃsu, bhayabhogā paṭiviratā
araññāyatanāni ajjhogāhetvā vihariṃsu. Te tattha sākabhakkhāpi
ahesuṃ. Pa . Pavattaphalabhojī. Tesaṃ gimhānaṃ pacchime māse
tiṇodakasaṅkhaye adhimattakasimānaṃ patto kāyo hoti, tesaṃ
adhimattakasimānaṃ pattakāyānaṃ balavīriyaṃ parihāyi, balavīriye
parihīne cetovimutti parihāyi, cetovimuttiyā parihīnāya tameva
nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa paccāgamiṃsu tāni ca lokāmisāni. Te
tattha anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjiṃsu, te tattha
anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjamānā madaṃ āpajjiṃsu, mattā
samānā pamādaṃ āpajjiṃsu, pamattā samānā yathākāmakaraṇīyā
ahesuṃ mārassa amusmiṃ nivāpe amusmiṃ ca lokāmise. Evaṃ hi te
dutiyāpi samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā.
Yaṃnūna mayaṃ amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa amūni ca lokāmisāni
upanissāya āsayaṃ kappeyyāma, tatrāsayaṃ kappetvā amuṃ nivāpaṃ
nivuttaṃ mārassa amūni ca lokāmisāni ananupakhajja amucchitā
bhojanāni bhuñjissāma, ananupakhajja amucchitā bhojanāni
bhuñjamānā na madaṃ āpajjissāma, amattā samānā na pamādaṃ
āpajjissāma, appamattā samānā na yathākāmakaraṇīyā bhavissāma
mārassa amusmiṃ nivāpe amusmiṃ ca lokāmise”ti.
|
Này các Tỷ-kheo, ở đây hạng
Sa-môn, Bà-la-môn thứ ba suy nghĩ như sau: "Hạng Sa-môn,
Bà-la-môn đầu tiên này xâm nhập, tham đắm ăn các đồ mồi được Ác
ma gieo ra và các vật dụng thế gian... (như trên)... Như vậy
hạng Sa-môn, Bà-la-môn đầu tiên này đă không thoát khỏi như ư
lực của Ác ma. Hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ hai suy nghĩ như sau:
"Hạng Sa-môn, Bà-la-môn đầu tiên này xâm nhập, tham đắm ăn các
đồ mồi do Ác ma gieo ra, và các vật dụng thế gian... (như
trên)... Như vậy, hạng Sa-môn, Bà-la-môn đầu tiên này đă không
thoát khỏi như ư lực của Ác ma. Vậy chúng ta hăy hoàn toàn từ bỏ
các đồ mồi... (như trên)... chúng ta từ bỏ hoàn toàn các đồ
mồi... (như trên)..."... Như vậy, hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ hai
này cũng không thoát khỏi như ư lực của Ác ma. Vậy chúng ta hăy
làm một chỗ ẩn nấp gần các đồ mồi do Ác ma gieo ra và các vật
dụng thế gian. Ở đây, sau khi làm một chỗ ẩn nấp xong, không xâm
nhập, không tham đắm, chúng ta sẽ ăn các đồ mồi do Ác ma gieo ra
và các vật dụng thế gian. Do không xâm nhập, không tham đắm ăn
các món ăn, chúng ta sẽ không trở thành mê loạn. Do không mê
loạn, chúng ta sẽ không trở thành phóng dật. Do không phóng dật,
chúng ta sẽ không trở thành những người bị làm theo Ác ma muốn,
giữa các đồ mồi và các vật dụng thế gian." |
Te amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa amūni ca lokāmisāni
upanissāya āsayaṃ kappayiṃsu, tatrāsayaṃ kappetvā amuṃ nivāpaṃ
nivuttaṃ mārassa amūni ca lokāmisāni ananupakhajja amucchitā
bhojanāni bhuñjiṃsu, te tattha ananupakhajja amucchitā bhojanāni
bhuñjamānā na madaṃ āpajjiṃsu, amattā samānā na pamādaṃ
āpajjiṃsu, appamattā samānā na yathākāmakaraṇīyā ahesuṃ mārassa
amusmiṃ nivāpe amusmiṃ ca lokāmise. |
Hạng Sa-môn,
Bà-la-môn này làm chỗ ẩn nấp gần các đồ mồi do Ác ma gieo ra và
giữa các vật dụng thế gian. Sau khi làm chỗ ẩn nấp ở đây xong,
họ không xâm nhập, không tham đắm ăn các đồ mồi do Ác ma gieo ra
và các vật dụng thế gian. Không xâm nhập, không tham đắm, họ
không ăn các đồ mồi nên không trở thành mê loạn. Do không mê
loạn, họ không trở thành phóng dật. Do không phóng dật, họ không
trở thành những người bị làm theo Ác ma muốn giữa các đồ mồi và
các vật dụng thế gian. |
Api ca kho evaṃdiṭṭhikā
ahesuṃ “Sassato loko” itipi, “Asassato loko” itipi, “Antavā
loko” itipi, “Anantavā loko” itipi, “Taṃ jīvaṃ taṃ sarīraṃ"
itipi, “Aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīraṃ" itipi, “Hoti tathāgato paraṃ
maraṇā” itipi, “Na hoti tathāgato paraṃ maraṇā” itipi, “Hoti ca
na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā” itipi, “Neva hoti na na hoti
tathāgato paraṃ maraṇā” itipi. Evaṃ hi te bhikkhave tatiyāpi
samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā. Seyyathāpi
te bhikkhave tatiyā migajātā, tathūpame ahaṃ ime tatiye
samaṇabrāhmaṇe vadāmi. |
Nhưng rồi họ có những tà kiến như sau:
"Thế giới là thường c̣n; thế giới là không thường c̣n; thế giới
là hữu biên; thế giới là vô biên; mạng sống và thân thể là một;
mạng sống và thân thể là khác; Như Lai sau khi chết có tồn tại;
Như Lai sau khi chết không tồn tại; Như Lai sau khi chết có tồn
tại và không tồn tại; Như Lai sau khi chết không tồn tại và
không không tồn tại". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Sa-môn,
Bà-la-môn thứ ba này đă không thoát khỏi như ư lực của Ác ma.
Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ ba này
giống như đàn nai thứ ba trong ví dụ này.
|
270. Tatra bhikkhave catutthā samaṇabrāhmaṇā evaṃ
samacintesuṃ– Ye kho
te paṭhamā samaṇabrāhmaṇā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa. Pa .
Evaṃ hi te paṭhamā samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsu mārassa
iddhānubhāvā. Yepi te dutiyā samaṇabrāhmaṇā evaṃ samacintesuṃ
“Ye kho te paṭhamā samaṇabrāhmaṇā. Pa . Evaṃ hi te paṭhamā
samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā. Yaṃnūna
mayaṃ sabbaso nivāpabhojanā lokāmisā paṭivirameyyāma, bhayabhogā
paṭiviratā araññāyatanāni ajjhogāhetvā vihareyyāmā”ti. Te
sabbaso nivāpabhojanā lokāmisā paṭiviramiṃsu. Pa . Evaṃ hi te
dutiyāpi samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā.
Yepi te tatiyā samaṇabrāhmaṇā evaṃ samacintesuṃ “Ye kho te
paṭhamā samaṇabrāhmaṇā. Pa . Evaṃ hi te paṭhamā samaṇabrāhmaṇā
na parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā. Yepi te dutiyā
samaṇabrāhmaṇā evaṃ samacintesuṃ ‘Ye kho te paṭhamā
samaṇabrāhmaṇā. Pa . Evaṃ hi te paṭhamā samaṇabrāhmaṇā na
parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā. Yaṃnūna mayaṃ sabbaso
nivāpabhojanā lokāmisā paṭivirameyyāma, bhayabhogā paṭiviratā
araññāyatanāni ajjhogāhetvā vihareyyāmā’ti. Te sabbaso
nivāpabhojanā lokāmisā paṭiviramiṃsu. Pa . Evaṃ hi te dutiyāpi
samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā. Yaṃnūna
mayaṃ amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa amūni ca lokāmisāni
upanissāya āsayaṃ kappeyyāma, tatrāsayaṃ kappetvā amuṃ nivāpaṃ
nivuttaṃ mārassa amūni ca lokāmisāni ananupakhajja amucchitā
bhojanāni bhuñjissāma, ananupakhajja amucchitā bhojanāni
bhuñjamānā na madaṃ āpajjissāma, amattā samānā na pamādaṃ
āpajjissāma, appamattā samānā na yathākāmakaraṇīyā bhavissāma
mārassa amusmiṃ nivāpe amusmiṃ ca lokāmise”ti. Te amuṃ nivāpaṃ
nivuttaṃ mārassa amūni ca lokāmisāni upanissāya āsayaṃ
kappayiṃsu, tatrāsayaṃ kappetvā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa
amūni ca lokāmisāni ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjiṃsu,
te tattha ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjamānā na madaṃ
āpajjiṃsu, amattā samānā na pamādaṃ āpajjiṃsu, appamattā samānā
na yathākāmakaraṇīyā ahesuṃ mārassa amusmiṃ nivāpe amusmiṃ ca
lokāmise. Api ca kho evaṃdiṭṭhikā ahesuṃ “Sassato loko” itipi.
Pa . “Neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā” itipi. Evaṃ
hi te tatiyāpi samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsu mārassa
iddhānubhāvā. Yaṃnūna mayaṃ yattha agati mārassa ca māraparisāya
ca, tatrāsayaṃ kappeyyāma, tatrāsayaṃ kappetvā amuṃ nivāpaṃ
nivuttaṃ mārassa amūni ca lokāmisāni ananupakhajja amucchitā
bhojanāni bhuñjissāma, ananupakhajja amucchitā bhojanāni
bhuñjamānā na madaṃ āpajjissāma, amattā samānā na pamādaṃ
āpajjissāma, appamattā samānā na yathākāmakaraṇīyā bhavissāma
mārassa amusmiṃ nivāpe amusmiṃ ca lokāmiseti.
|
Ở đây, này các Tỷ-kheo, hạng
Sa-môn, Bà-la-môn thứ tư suy nghĩ như sau: "Hạng Sa-môn,
Bà-la-môn thứ nhất xâm nhập, tham đắm ăn các đồ mồi của Ác ma và
các vật dụng thế gian... như vậy, hạng Sa-môn, Bà-la-môn này
không thoát khỏi như ư lực của Ác ma. Hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ
hai suy nghĩ như sau: "Hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ nhất... (như
trên)... Như vậy, hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ nhất không thoát
được như ư lực của Ác ma. Vậy, chúng ta hăy từ bỏ hoàn toàn các
món ăn bẫy mồi... (như trên)...". Như vậy, hạng Sa-môn,
Bà-la-môn thứ hai không thoát khỏi như ư lực của Ác ma. Hạng
Sa-môn, Bà-la-môn thứ ba suy nghĩ như sau : "...(như trên)...
Như vậy, hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ ba không thoát khỏi như ư
lực của Ác ma. Vậy chúng ta hăy làm chỗ ẩn nấp tại một nơi mà Ác
ma và Ác ma quyến thuộc không thể đến được. Làm chỗ ẩn nấp ở đấy
xong, chúng ta sẽ không xâm nhập, không tham đắm ăn các đồ mồi
do Ác ma gieo ra và các vật dụng thế gian. Không xâm nhập, không
tham đắm ăn các đồ ăn nên chúng ta không trở thành mê loạn. Do
không mê loạn, chúng ta không trở thành phóng dật. Do không
phóng dật, chúng ta không trở thành những người bị làm theo Ác
ma muốn, giữa các đồ mồi và các vật dụng thế gian".
|
Te yattha agati mārassa ca māraparisāya ca,
tatrāsayaṃ kappayiṃsu, tatrāsayaṃ kappetvā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ
mārassa amūni ca lokāmisāni ananupakhajja amucchitā bhojanāni
bhuñjiṃsu. Te tattha ananupakhajja amucchitā bhojanāni
bhuñjamānā na madaṃ āpajjiṃsu, amattā samānā na pamādaṃ
āpajjiṃsu, appamattā samānā na yathākāmakaraṇīyā ahesuṃ mārassa
amusmiṃ nivāpe amusmiṃ ca lokāmise. Evaṃ hi te bhikkhave
catutthā samaṇabrāhmaṇā parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā.
Seyyathāpi te bhikkhave catutthā migajātā, tathūpame ahaṃ ime
catutthe samaṇabrāhmaṇe vadāmi.
|
Rồi họ làm
chỗ ẩn nấp tại một nơi mà Ác ma và Ác ma quyến thuộc không thể
đến được. Làm chỗ ẩn nấp ở đấy xong, họ không xâm nhập, không
tham đắm ăn các đồ mồi do Ác ma gieo ra và các vật dụng thế
gian. Không xâm nhập, không tham đắm ăn các đồ mồi do Ác ma gieo
ra và các vật dụng thế gian, nên họ không trở thành mê loạn. Do
không mê loạn, họ không trở thành phóng dật. Do không phóng dật,
họ không trở thành những người bị làm theo Ác ma muốn giữa các
đồ mồi và các vật dụng thế gian. Như vậy, này các Tỷ-kheo, hạng
Sa-môn, Bà-la-môn thứ tư đă thoát khỏi như ư lực của Ác ma. Này
các Tỷ-kheo, Ta nói hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ tư này giống như
đàn nai thứ tư trong ví dụ này.
|
271. Kathañca
bhikkhave agati mārassa ca māraparisāya ca. Idha bhikkhave
bhikkhu vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ
savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja
viharati. Ayaṃ vuccati bhikkhave bhikkhu andhamakāsi māraṃ,
apadaṃ vadhitvā māracakkhuṃ adassanaṃ gato pāpimato.
|
Này các Tỷ-kheo, sao gọi là Ác
ma và Ác ma quyến thuộc không thể đến được? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly dục, ly ác bất thiện pháp chứng và trú Thiền
thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ.
Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là Tỷ-kheo làm Ác ma mù mắt, đoạn
tuyệt mắt của Ác ma, không c̣n dấu tích, khiến Ác ma không thấy
đường đi lối về.
|
Puna caparaṃ
bhikkhave bhikkhu vitakkavicārānaṃ vūpasamā ajjhattaṃ
sampasādanaṃ cetaso ekodibhāvaṃ avitakkaṃ avicāraṃ samādhijaṃ
pītisukhaṃ dutiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Ayaṃ vuccati
bhikkhave. Pa . Pāpimato.
|
Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng
thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm.
Như vậy gọi là vị Tỷ-kheo làm Ác ma mù mắt, đoạn tuyệt mắt của
Ác ma, không c̣n dấu tích, khiến Ác ma không thấy đường đi lối
về.
|
Puna caparaṃ bhikkhave bhikkhu pītiyā ca virāgā
upekkhako ca viharati sato ca sampajāno, sukhañca kāyena
paṭisaṃvedeti, yaṃ taṃ ariyā ācikkhanti “Upekkhako satimā
sukhavihārī”ti tatiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Ayaṃ vuccati
bhikkhave. Pa . Pāpimato.
|
Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ
mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ
ba. Như vậy gọi là Tỷ-kheo... (như trên)... đường đi lối về.
|
Puna caparaṃ
bhikkhave bhikkhu sukhassa ca pahānā dukkhassa ca pahānā pubbeva
somanassadomanassānaṃ atthaṅgamā adukkhamasukhaṃ
upekkhāsatipārisuddhiṃ catutthaṃ jhānaṃ upasampajja viharati.
Ayaṃ vuccati bhikkhave. Pa . Pāpimato.
|
Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ trước, chứng và
trú Thiền thứ tư không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Như
vậy gọi là Tỷ-kheo... (như trên)...đường đi lối về.
|
Puna caparaṃ
bhikkhave bhikkhu sabbaso rūpasaññānaṃ samatikkamā
paṭighasaññānaṃ atthaṅgamā nānattasaññānaṃ amanasikārā “Ananto
ākāso”ti ākāsānañcāyatanaṃ upasampajja viharati. Ayaṃ vuccati
bhikkhave. Pa . Pāpimato.
|
Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo vượt lên mọi sắc tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng,
không tác ư đối với dị tưởng. Tỷ-kheo nghĩ rằng: "Hư không là vô
biên", chứng và trú Không vô biên xứ. Như vậy gọi là Tỷ-
kheo...(như trên)... đường đi lối về.
|
Puna caparaṃ
bhikkhave bhikkhu sabbaso ākāsānañcāyatanaṃ samatikkamma
“Anantaṃ viññāṇan”ti viññāṇañcāyatanaṃ upasampajja viharati.
Ayaṃ vuccati bhikkhave. Pa . Pāpimato.
|
Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo vượt lên mọi Không vô biên xứ, nghĩ rằng "Thức là vô
biên", chứng và trú Thức vô biên xứ. Như vậy, gọi là vị
Tỷ-kheo... (như trên)... đường đi lối về.
|
Puna caparaṃ
bhikkhave bhikkhu sabbaso viññāṇañcāyatanaṃ samatikkamma “Natthi
kiñcī”ti ākiñcaññāyatanaṃ upasampajja viharati. Ayaṃ vuccati
bhikkhave. Pa . Pāpimato.
|
Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo vượt lên mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: "Không có một
vật ǵ", chứng và trú Vô sở hữu xứ. Như vậy gọi là Tỷ-kheo...
(như trên)... đường đi lối về.
|
Puna caparaṃ
bhikkhave bhikkhu sabbaso ākiñcaññāyatanaṃ samatikkamma
nevasaññānāsaññāyatanaṃ upasampajja viharati. Ayaṃ vuccati
bhikkhave. Pa . Pāpimato.
|
Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo vượt lên mọi Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi
phi tưởng xứ. Như vậy gọi là vị Tỷ-kheo... (như trên)... đường
đi lối về.
|
Puna caparaṃ
bhikkhave bhikkhu sabbaso nevasaññānāsaññāyatanaṃ samatikkamma
saññāvedayitanirodhaṃ upasampajja viharati, paññāya cassa disvā
āsavā parikkhīṇā honti. Ayaṃ vuccati bhikkhave bhikkhu
andhamakāsi māraṃ, apadaṃ vadhitvā māracakkhuṃ adassanaṃ gato
pāpimato, tiṇṇo loke visattikanti.
|
Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo vượt lên mọi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú
Diệt thọ tưởng (định), sau khi thấy (mọi vật) với trí tuệ, các
lậu hoặc được diệt trừ. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là Tỷ-kheo
làm Ác mà mù mắt, đoạn tuyệt mắt của Ác ma, không c̣n dấu tích,
khiến Ác ma không thấy đường đi lối về. Vị ấy đă vượt khỏi tham
trước ở đời.
|
Idamavoca
Bhagavā. Attamanā te bhikkhū Bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti.
|
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
|
Nivāpasuttaṃ niṭṭhitaṃ pañcamaṃ.
|
|
<Kinh số 024> |
<Kinh
số 026> |
|