Trang Chính

Trang Các Bản Dịch Mới

Font VU-Times

 

TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 04

 

ĐẠI PHẨM tập I

ẤN BẢN 2013

Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda

(Đọc với font VU- Times và Acrobat Reader)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

IV. CHƯƠNG PAVĀRAṆĀ

 

 

TỤNG PHẨM THỨ NHẤT

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu là bạn bè đồng quan điểm, thân thiết, đă vào mùa (an cư) mưa tại trú xứ nọ ở trong xứ Kosala.

 

2. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đă khởi ư điều này: “Chúng ta có sự hợp nhất, thân thiện, không căi vă nhau, vậy bằng phương thức nào có thể sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái, và không bị khó nhọc v́ đồ ăn khất thực?”

 

3. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đă khởi ư điều này: “Nếu chúng ta có thể không nói với nhau và cũng không chuyện tṛ, vị nào đi khất thực từ làng trở về trước tiên, vị ấy sắp xếp chỗ ngồi, chuẩn bị nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đựng đồ thừa rồi đem lại, cung ứng nước uống nước rửa. Vị nào đi khất thực từ làng trở về sau cùng, nếu vật thực được ăn c̣n thừa lại, nếu muốn có thể ăn; nếu không muốn có thể đem quăng bỏ ở nơi không có cỏ xanh, hoặc đổ xuống ở nước không có sinh vật. Vị ấy xếp chỗ ngồi lại, dọn dẹp nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đựng đồ thừa rồi cất đi, dọn dẹp nước uống nước rửa, và quét nhà ăn. Vị nào thấy lu nước uống, hoặc lu nước rửa, hoặc lu nước nhà vệ sinh hết nước, trống trơn, vị ấy có thể đem (nước) lại. Nếu vị ấy không làm nổi, có thể ra hiệu bằng tay mời vị thứ hai và có thể đem (nước) lại với dấu hiệu bằng tay, nhưng không v́ lư do đó lại có thể phát ra lời nói. Như thế, chúng ta có sự hợp nhất, thân thiện, không căi vă nhau có thể sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái, và không bị khó nhọc v́ đồ ăn khất thực.”

 

4. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă không nói với nhau và cũng không chuyện tṛ. Vị nào đi khất thực từ làng trở về trước tiên, vị ấy sắp xếp chỗ ngồi, chuẩn bị nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đựng đồ thừa rồi đem lại, cung ứng nước uống nước rửa. Vị nào đi khất thực từ làng trở về sau cùng, nếu vật thực được ăn c̣n thừa lại, nếu muốn th́ vị ấy ăn; nếu không muốn th́ đem quăng bỏ ở nơi không có cỏ xanh hoặc đổ xuống ở nước không có sinh vật. Vị ấy xếp chỗ ngồi lại, dọn dẹp nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đựng đồ thừa rồi cất đi, dọn dẹp nước uống nước rửa, và quét nhà ăn. Vị nào thấy lu nước uống, hoặc lu nước rửa, hoặc lu nước nhà vệ sinh hết nước, trống trơn, vị ấy đem (nước) lại. Nếu không làm nổi, vị ấy ra hiệu bằng tay mời vị thứ hai và đem (nước) lại với dấu hiệu bằng tay, nhưng không v́ lư do đó mà phát ra lời nói.

 

5. Điều này đă trở thành thông lệ của các tỳ khưu đă sống qua mùa (an cư) mưa là đi đến để diện kiến đức Thế Tôn. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy khi đă sống qua mùa (an cư) mưa với thời gian ba tháng đă thu xếp chỗ trú ngụ, cầm y bát, ra đi về phía thành Sāvatthi. Tuần tự, các vị đă đi đến Jetavana tu viện của ông Anāthapiṇḍika gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên.

 

6. Điều này đă trở thành thông lệ của chư Phật Thế Tôn là niềm nở với các vị tỳ khưu đi đến. Khi ấy, đức Thế Tôn đă nói với các vị tỳ khưu ấy điều này: - “Này các tỳ khưu, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp không? Các ngươi có sự hợp nhất, thân thiện, không căi vă nhau có phải đă sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái, và không bị khó nhọc v́ đồ ăn khất thực không?”

 

7. - “Bạch Thế Tôn, sức khoẻ khá. Bạch Thế Tôn, mọi việc được tốt đẹp. Và bạch ngài, chúng con có sự hợp nhất, thân thiện, không căi vă nhau đă sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái, và không bị khó nhọc v́ đồ ăn khất thực.”

 

8. Các đấng Như Lai dầu biết vẫn hỏi, dầu biết các vị vẫn không hỏi, biết đúng thời các vị mới hỏi, biết đúng thời các vị vẫn không hỏi, có liên quan đến lợi ích các đấng Như Lai mới hỏi và không có liên quan đến lợi ích th́ không (hỏi), khi không có liên quan đến lợi ích các đấng Như Lai có cách để cắt đứt vấn đề.

 

9. Chư Phật Thế Tôn hỏi các vị tỳ khưu với hai lư do: “Chúng ta sẽ thuyết giảng Giáo Pháp hoặc là chúng ta sẽ quy định điều học cho các đệ tử.”

 

10. Khi ấy, đức Thế Tôn đă nói với các vị tỳ khưu ấy điều này: - “Này các tỳ khưu, các ngươi có sự hợp nhất, thân thiện, không căi vă nhau đă sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái, và không bị khó nhọc v́ đồ ăn khất thực là như thế nào?”

 

11. - “Bạch ngài, trường hợp chúng con gồm nhiều vị tỳ khưu là bạn bè đồng quan điểm, thân thiết, đă vào mùa (an cư) mưa tại trú xứ nọ ở trong xứ Kosala. Bạch ngài, chúng con đây đă khởi ư điều này: ‘Chúng ta có sự hợp nhất, thân thiện, không căi vă nhau, vậy bằng phương thức nào có thể sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái, và không bị khó nhọc v́ đồ ăn khất thực?’

 

12. Bạch ngài, chúng con đây đă khởi ư điều này: ‘Nếu chúng ta có thể không nói với nhau và cũng không chuyện tṛ, vị nào đi khất thực từ làng trở về trước tiên vị ấy sắp xếp chỗ ngồi, chuẩn bị nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đựng đồ thừa rồi đem lại, cung ứng nước uống nước rửa. Vị nào đi khất thực từ làng trở về sau cùng, nếu vật thực được ăn c̣n thừa lại, nếu muốn có thể ăn; nếu không muốn có thể đem quăng bỏ ở nơi không có cỏ xanh hoặc đổ xuống ở nước không có sinh vật. Vị ấy xếp chỗ ngồi lại, dọn dẹp nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đựng đồ thừa rồi cất đi, dọn dẹp nước uống nước rửa, và quét nhà ăn. Vị nào thấy lu nước uống, hoặc lu nước rửa, hoặc lu nước nhà vệ sinh hết nước, trống trơn, vị ấy có thể đem (nước) lại. Nếu vị ấy không làm nổi, có thể ra hiệu bằng tay mời vị thứ hai và có thể đem (nước) lại với dấu hiệu bằng tay, nhưng không v́ lư do đó lại có thể phát ra lời nói. Như thế, chúng ta có sự hợp nhất, thân thiện, không căi vă nhau có thể sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái, và không bị khó nhọc v́ đồ ăn khất thực.’

 

13. Bạch ngài, sau đó chúng con đă không nói với nhau và cũng không chuyện tṛ. Vị nào đi khất thực từ làng trở về trước tiên vị ấy sắp xếp chỗ ngồi, chuẩn bị nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đựng đồ thừa rồi đem lại, cung ứng nước uống nước rửa. Vị nào đi khất thực từ làng trở về sau cùng, nếu vật thực được ăn c̣n thừa lại, nếu muốn th́ vị ấy ăn; nếu không muốn có thể đem quăng bỏ ở nơi không có cỏ xanh hoặc đổ xuống ở nước không có sinh vật. Vị ấy xếp chỗ ngồi lại, dọn dẹp nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đựng đồ thừa rồi cất đi, dọn dẹp nước uống nước rửa, và quét nhà ăn. Vị nào thấy lu nước uống, hoặc lu nước rửa, hoặc lu nước nhà vệ sinh hết nước, trống trơn, vị ấy đem (nước) lại. Nếu không làm nổi, vị ấy ra hiệu bằng tay mời vị thứ hai và đem (nước) lại với dấu hiệu bằng tay, nhưng không v́ lư do đó mà phát ra lời nói. Bạch ngài, chúng con có sự hợp nhất, thân thiện, không căi vă nhau đă sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái, và không bị khó nhọc v́ đồ ăn khất thực là như thế.”

 

14. Khi ấy, đức Thế Tôn đă bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, thật ra những kẻ rồ dại này trong khi đă sống một cách không thoải mái lại bảo rằng: ‘Chúng con đă sống một cách thoải mái.’ Này các tỳ khưu, thật ra những kẻ rồ dại này trong khi đă sống với lối sống chung của loài thú lại bảo rằng: ‘Chúng con đă sống một cách thoải mái.’ Này các tỳ khưu, thật ra những kẻ rồ dại này trong khi đă sống với lối sống chung của loài cừu lại bảo rằng: ‘Chúng con đă sống một cách thoải mái.’ Này các tỳ khưu, thật ra những kẻ rồ dại này trong khi đă sống với lối cộng trú của những kẻ lười biếng lại bảo rằng: ‘Chúng con đă sống một cách thoải mái.’ Này các tỳ khưu, v́ sao những kẻ rồ dại này lại thọ tŕ lối thực hành của ngoại đạo là sự hành tŕ như kẻ câm. Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)―

 

 Sau khi khiển trách, ngài đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, không nên thọ tŕ lối thực hành của ngoại đạo là sự hành tŕ như kẻ câm; vị nào thọ tŕ th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, đối với các tỳ khưu đă sống qua mùa (an cư) mưa ta cho phép thỉnh cầu dựa trên ba t́nh huống là do đă được thấy, hoặc do đă được nghe, hoặc do sự nghi ngờ. Việc ấy sẽ giúp cho các ngươi có được sự hài ḥa với nhau, có được sự thoát ra khỏi tội, và có được sự tôn vinh Luật. Và này các tỳ khưu, nên thỉnh cầu như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 

“Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Hôm nay là ngày lễ Pavāraṇā.[1] Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā.”

 

15. Vị tỳ khưu trưởng lăo nên đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: “Này các sư đệ, tôi xin thỉnh cầu hội chúng do đă được thấy, hoặc do đă được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, v́ ḷng thương xót xin các đại đức hăy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa. Này các sư đệ, lần thứ nh́ tôi xin thỉnh cầu hội chúng do đă được thấy, hoặc do đă được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, v́ ḷng thương xót xin các đại đức hăy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa. Này các sư đệ, lần thứ ba tôi xin thỉnh cầu hội chúng do đă được thấy, hoặc do đă được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, v́ ḷng thương xót xin các đại đức hăy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.”

 

16. Vị tỳ khưu mới tu nên đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: “Bạch các ngài, tôi xin thỉnh cầu hội chúng do đă được thấy, hoặc do đă được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, v́ ḷng thương xót xin các đại đức hăy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa. Bạch các ngài, lần thứ nh́ tôi xin thỉnh cầu hội chúng ―(như trên)― Bạch các ngài, lần thứ ba tôi xin thỉnh cầu hội chúng do đă được thấy, hoặc do đă được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, v́ ḷng thương xót xin các đại đức hăy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.”

 

17. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư ngồi yên trên chỗ ngồi trong lúc các tỳ khưu trưởng lăo đang ngồi chồm hổm thỉnh cầu. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại ngồi yên trên chỗ ngồi trong lúc các tỳ khưu trưởng lăo đang ngồi chồm hổm thỉnh cầu?”

 

18. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu nhóm Lục Sư ngồi yên trên chỗ ngồi trong lúc các tỳ khưu trưởng lăo ngồi đang chồm hổm thỉnh cầu, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”

 

Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: - “Này các tỳ khưu, v́ sao những kẻ rồ dại này lại ngồi yên trên chỗ ngồi trong lúc các tỳ khưu trưởng lăo đang ngồi chồm hổm thỉnh cầu.

 

19. Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, không nên ngồi yên trên chỗ ngồi trong lúc các tỳ khưu trưởng lăo đang ngồi chồm hổm thỉnh cầu; vị nào ngồi yên th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép toàn bộ tất cả ngồi chồm hổm để thỉnh cầu.”

 

20. Vào lúc bấy giờ, có vị trưởng lăo nọ già yếu ngồi chồm hổm (nghĩ rằng): “Đến khi tất cả thỉnh cầu xong,” trong lúc chờ đợi bị choáng váng rồi té xuống.

 

21. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép ngồi chồm hổm trong khoảng thời gian chờ đợi cho đến khi thỉnh cầu, sau khi thỉnh cầu th́ được ngồi xuống trên chỗ ngồi.”

 

22. Khi ấy, các vị tỳ khưu đă khởi ư điều này: “Có bao nhiêu lễ Pavāraṇā?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. “Này các tỳ khưu, đây là hai lễ Pavāraṇā: Lễ ngày mười bốn và lễ ngày mười lăm. Này các tỳ khưu, đây là hai lễ Pavāraṇā.”

 

23. Khi ấy, các vị tỳ khưu đă khởi ư điều này: “Có bao nhiêu hành sự Pavāraṇā?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, đây là bốn hành sự Pavāraṇā: Hành sự Pavāraṇā sai Pháp theo phe nhóm, hành sự Pavāraṇā sai Pháp có sự hợp nhất, hành sự Pavāraṇā đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự Pavāraṇā đúng Pháp có sự hợp nhất.

 

24. Này các tỳ khưu, trường hợp này tức là hành sự Pavāraṇā sai Pháp theo phe nhóm, này các tỳ khưu, không nên thực hiện hành sự Pavāraṇā có h́nh thức như thế và hành sự Pavāraṇā có h́nh thức như thế không được ta cho phép.

 

25. Này các tỳ khưu, trường hợp này tức là hành sự Pavāraṇā sai Pháp có sự hợp nhất, này các tỳ khưu, không nên thực hiện hành sự Pavāraṇā có h́nh thức như thế và hành sự Pavāraṇā có h́nh thức như thế không được ta cho phép.

 

26. Này các tỳ khưu, trường hợp này tức là hành sự Pavāraṇā đúng Pháp theo phe nhóm, này các tỳ khưu, không nên thực hiện hành sự Pavāraṇā có h́nh thức như thế và hành sự Pavāraṇā có h́nh thức như thế không được ta cho phép.

 

27. Này các tỳ khưu, trường hợp này tức là hành sự Pavāraṇā đúng Pháp có sự hợp nhất, này các tỳ khưu, nên thực hiện hành sự Pavāraṇā có h́nh thức như thế và hành sự Pavāraṇā có h́nh thức như thế được ta cho phép.

 

28. Này các tỳ khưu, do đó ở đây chúng ta sẽ thực hiện hành sự Pavāraṇā có h́nh thức như thế tức là ‘Đúng Pháp có sự hợp nhất.’ Này các tỳ khưu, các ngươi nên học tập theo đúng như thế.”

 

29. Sau đó, đức Thế Tôn đă bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, hăy tụ hội lại, hội chúng sẽ thực hiện lễ Pavāraṇā.”

 

30. Khi được nói như thế, có vị tỳ khưu nọ đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, có vị tỳ khưu bị bệnh. Vị ấy không đến.” - “Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu bị bệnh được trao ra lời thỉnh cầu. Và này các tỳ khưu, nên trao ra như vầy: Vị tỳ khưu bị bệnh nên đi đến gặp một vị tỳ khưu, nên đắp thượng y một bên vai, nên ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: “Tôi xin trao ra lời thỉnh cầu. Hăy chuyển đạt lời thỉnh cầu của tôi. Hăy thông báo lời thỉnh cầu của tôi. Hăy thỉnh cầu v́ sự lợi ích của tôi.”

 

 (Nếu) vị ấy thể hiện bằng thân, thể hiện bằng lời nói, thể hiện bằng thân và lời nói, th́ lời thỉnh cầu đă được trao ra. (Nếu) vị ấy không thể hiện bằng thân, không thể hiện bằng lời nói, không thể hiện bằng thân và lời nói, th́ lời thỉnh cầu đă không được trao ra. Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Này các tỳ khưu, nếu không đạt được (như thế) th́ nên dùng cái giường hoặc cái ghế khiêng vị tỳ khưu bị bệnh ấy đến giữa hội chúng rồi nên thực hiện lễ Pavāraṇā. Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu chăm sóc bệnh khởi ư như vầy: “Nếu chúng ta di chuyển vị bị bệnh dời khỏi vị trí th́ bệnh sẽ trầm trọng hơn hoặc sẽ gây tử vong,” này các tỳ khưu, không nên di chuyển vị bị bệnh khỏi vị trí. Hội chúng nên đi đến và thực hiện lễ Pavāraṇā ở nơi ấy. Nhưng không nên thực hiện lễ Pavāraṇā bởi hội chúng theo phe nhóm; vị nào thực hiện th́ phạm tội dukkaṭa.

 

31. Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đă được trao ra, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu từ chính chỗ ấy ra đi (đến nơi khác) th́ lời thỉnh cầu nên được trao ra đến vị khác. Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đă được trao ra, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu ngay tại chỗ ấy hoàn tục, ... từ trần, ... được biết là vị (xuống lại) sa di, ... được biết là người đă từ bỏ điều học, ... được biết là vị phạm tội cực nặng, ... được biết là vị bị điên, ... được biết là bị loạn trí, ... được biết là bị thọ khổ hành hạ, ... được biết là vị bị án treo trong việc không nh́n nhận tội, ... được biết là vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi, ... được biết là vị bị án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác, ... được biết là kẻ vô căn, ... được biết là kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu), ... được biết là kẻ đă chuyển sang ngoại đạo, ... được biết là loài thú, ... được biết là kẻ giết mẹ, ... được biết là kẻ giết cha, ... được biết là kẻ giết A-la-hán, ... được biết là kẻ làm nhơ tỳ khưu ni, ... được biết là kẻ chia rẽ hội chúng, ... được biết là kẻ làm chảy máu (đức Phật), ... được biết là kẻ lưỡng căn th́ lời thỉnh cầu nên được trao ra đến vị khác.

 

32. Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đă được trao ra, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu ở khoảng giữa đường lại ra đi (đến nơi khác) th́ lời thỉnh cầu vẫn chưa được chuyển đạt. Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đă được trao ra, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu ở khoảng giữa đường lại hoàn tục, ... từ trần, ... được biết là vị (xuống lại) sa di, ... được biết là người đă từ bỏ điều học, ... được biết là vị phạm tội cực nặng, ... được biết là vị bị điên, ... được biết là bị loạn trí, ... được biết là bị thọ khổ hành hạ, ... được biết là vị bị án treo trong việc không nh́n nhận tội, ... được biết là vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi, ... được biết là vị bị án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác, ... được biết là kẻ vô căn, ... được biết là kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu), ... được biết là kẻ đă chuyển sang ngoại đạo, ... được biết là loài thú, ... được biết là kẻ giết mẹ, ... được biết là kẻ giết cha, ... được biết là kẻ giết A-la-hán, ... được biết là kẻ làm nhơ tỳ khưu ni, ... được biết là kẻ chia rẽ hội chúng, ... được biết là kẻ làm chảy máu (đức Phật), ... được biết là kẻ lưỡng căn th́ lời thỉnh cầu vẫn chưa được chuyển đạt.

 

33. Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đă được trao ra, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu đă đến được hội chúng rồi ra đi (đến nơi khác) th́ lời thỉnh cầu đă được chuyển đạt. Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đă được trao ra, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu đă đến được hội chúng rồi hoàn tục, ... từ trần, ... được biết là vị (xuống lại) sa di, ... được biết là người đă từ bỏ điều học, ... được biết là vị phạm tội cực nặng, ... được biết là vị bị điên, ... được biết là bị loạn trí, ... được biết là bị thọ khổ hành hạ, ... được biết là vị bị án treo trong việc không nh́n nhận tội, ... được biết là vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi, ... được biết là vị bị án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác, ... được biết là kẻ vô căn, ... được biết là kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu), ... được biết là kẻ đă chuyển sang ngoại đạo, ... được biết là loài thú, ... được biết là kẻ giết mẹ, ... được biết là kẻ giết cha, ... được biết là kẻ giết A-la-hán, ... được biết là kẻ làm nhơ tỳ khưu ni, ... được biết là kẻ chia rẽ hội chúng, ... được biết là kẻ làm chảy máu (đức Phật), ... được biết là kẻ lưỡng căn th́ lời thỉnh cầu đă được chuyển đạt.

 

34. Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đă được trao ra, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu đă đến được hội chúng rồi ngủ quên nên không thông báo th́ lời thỉnh cầu đă được chuyển đạt. Vị chuyển đạt lời thỉnh cầu không bị phạm tội. Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đă được trao ra, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu đă đến được hội chúng rồi lơ đễnh ―(như trên)― rồi nhập định nên không thông báo th́ lời thỉnh cầu đă được chuyển đạt. Vị chuyển đạt lời thỉnh cầu không bị phạm tội.

 

35. Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đă được trao ra, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu đă đến được hội chúng rồi cố ư không thông báo th́ lời thỉnh cầu đă được chuyển đạt và vị chuyển đạt lời thỉnh cầu bị phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép vào ngày lễ Pavāraṇā vị trao ra lời thỉnh cầu (đồng thời) trao ra sự tùy thuận (pḥng khi) hội chúng có hành sự cần được thực hiện.”

 

36. Vào lúc bấy giờ, vào ngày lễ Pavāraṇā các thân quyến đă nắm giữ lại vị tỳ khưu nọ. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraṇā các thân quyến nắm giữ vị tỳ khưu lại. Các thân quyến ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các ngài, các ngài hăy trả tự do cho vị tỳ khưu này trong chốc lát đến khi nào vị tỳ khưu này thực hiện lễ Pavāraṇā xong.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đạt được (như thế), các thân quyến ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các ngài, các ngài hăy tránh sang một bên trong chốc lát đến khi nào vị tỳ khưu này trao ra lời thỉnh cầu xong.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đạt được (như thế), các thân quyến ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các ngài, các ngài hăy dẫn vị tỳ khưu này ra khỏi ranh giới trong chốc lát đến khi nào hội chúng thực hiện lễ Pavāraṇā xong.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đạt được (như thế), vẫn không nên thực hiện lễ Pavāraṇā bởi hội chúng theo phe nhóm; vị nào thực hiện th́ phạm tội dukkaṭa.

 

37. Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraṇā các đức vua nắm giữ vị tỳ khưu lại. ... các kẻ trộm cướp nắm giữ ... những kẻ bất lương nắm giữ ... những kẻ đối nghịch tỳ khưu nắm giữ vị tỳ khưu lại. Những kẻ đối nghịch tỳ khưu ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các ngài, các ngài hăy trả tự do cho vị tỳ khưu này trong chốc lát đến khi nào vị tỳ khưu này thực hiện lễ Pavāraṇā xong.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đạt được (như thế), những kẻ đối nghịch tỳ khưu ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các ngài, các ngài hăy tránh sang một bên trong chốc lát đến khi nào vị tỳ khưu này trao ra lời thỉnh cầu xong.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đạt được (như thế), những kẻ đối nghịch tỳ khưu ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các đạo hữu, các người hăy dẫn vị tỳ khưu này ra khỏi ranh giới trong chốc lát đến khi nào hội chúng thực hiện lễ Pavāraṇā xong.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không thể đạt được (như thế), vẫn không nên thỉnh cầu bởi hội chúng theo phe nhóm; nếu vị nào thỉnh cầu th́ phạm tội dukkaṭa.”

 

38. Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có năm vị tỳ khưu cư ngụ. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đă khởi ư điều này: “Đức Thế Tôn đă quy định rằng: ‘Hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā’ và chúng ta là năm người, vậy chúng ta nên thực hiện lễ Pavāraṇā như thế nào?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép thỉnh cầu hội chúng đối với năm vị.”

 

39. Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có bốn vị tỳ khưu cư ngụ. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đă khởi ư điều này: “Đức Thế Tôn đă cho phép thỉnh cầu hội chúng đối với năm vị và chúng ta là bốn người, vậy chúng ta nên thực hiện lễ Pavāraṇā như thế nào?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép thỉnh cầu lẫn nhau đối với bốn vị. Và này các tỳ khưu, nên thỉnh cầu như vầy: Các vị tỳ khưu ấy nên được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 

40. “Xin các đại đức hăy lắng nghe tôi, hôm nay là ngày lễ Pavāraṇā. Nếu là thời điểm thích hợp cho các đại đức, chúng ta nên thỉnh cầu lẫn nhau.” Vị tỳ khưu trưởng lăo nên đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói với các vị tỳ khưu ấy như vầy: “Này các sư đệ, tôi xin thỉnh cầu các đại đức do đă được thấy, hoặc do đă được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, v́ ḷng thương xót xin các đại đức hăy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa. Này các sư đệ, lần thứ nh́ tôi xin thỉnh cầu các đại đức ―(như trên)― Này các sư đệ, lần thứ ba tôi xin thỉnh cầu các đại đức do đă được thấy, hoặc do đă được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, v́ ḷng thương xót xin các đại đức hăy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.”

 

41. Vị tỳ khưu mới tu nên đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói với vị các tỳ khưu ấy như vầy: “Bạch các ngài, tôi xin thỉnh cầu các đại đức do đă được thấy, hoặc do đă được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, v́ ḷng thương xót xin các đại đức hăy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa. Bạch các ngài, lần thứ nh́ tôi xin thỉnh cầu các đại đức ―(như trên)― Bạch các ngài, lần thứ ba tôi xin thỉnh cầu các đại đức do đă được thấy, hoặc do đă được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, v́ ḷng thương xót xin các đại đức hăy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.”

 

42. Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có ba vị tỳ khưu cư ngụ. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đă khởi ư điều này: “Đức Thế Tôn đă cho phép thỉnh cầu hội chúng đối với năm vị, thỉnh cầu lẫn nhau đối với bốn vị và chúng ta là ba người, vậy chúng ta nên thực hiện lễ Pavāraṇā như thế nào?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép thỉnh cầu lẫn nhau đối với ba vị. Và này các tỳ khưu, nên thỉnh cầu như vầy: Các vị tỳ khưu ấy cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 

43. “Xin các đại đức hăy lắng nghe tôi, hôm nay là ngày lễ Pavāraṇā vào ngày mười lăm. Nếu là thời điểm thích hợp cho các đại đức, chúng ta nên thỉnh cầu lẫn nhau.” Vị tỳ khưu trưởng lăo nên đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói với vị các tỳ khưu ấy như vầy: “Này các sư đệ, tôi xin thỉnh cầu các đại đức do đă được thấy, hoặc do đă được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, v́ ḷng thương xót xin các đại đức hăy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa. Này các sư đệ, lần thứ nh́ tôi xin thỉnh cầu các đại đức ―(như trên)― Này các sư đệ, lần thứ ba tôi xin thỉnh cầu các đại đức do đă được thấy, hoặc do đă được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, v́ ḷng thương xót xin các đại đức hăy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.”

 

44. Vị tỳ khưu mới tu nên đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói với các vị tỳ khưu ấy như vầy: “Bạch các ngài, tôi xin thỉnh cầu các đại đức do đă được thấy, hoặc do đă được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, v́ ḷng thương xót xin các đại đức hăy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa. Bạch các ngài, lần thứ nh́ tôi xin thỉnh cầu các đại đức ―(như trên)― Bạch các ngài, lần thứ ba tôi xin thỉnh cầu các đại đức do đă được thấy, hoặc do đă được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, v́ ḷng thương xót xin các đại đức hăy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.”

 

45. Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có hai vị tỳ khưu cư ngụ. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đă khởi ư điều này: “Đức Thế Tôn đă cho phép thỉnh cầu hội chúng đối với năm vị, thỉnh cầu lẫn nhau đối với bốn vị,thỉnh cầu lẫn nhau đối với ba vị và chúng ta là hai người, vậy chúng ta nên thực hiện lễ Pavāraṇā như thế nào?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép thỉnh cầu lẫn nhau đối với hai vị. Và này các tỳ khưu, nên thỉnh cầu như vầy: Vị tỳ khưu trưởng lăo nên đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói với vị tỳ khưu mới tu như vầy: “Này sư đệ, tôi xin thỉnh cầu đại đức do đă được thấy, hoặc do đă được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, v́ ḷng thương xót xin đại đức hăy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa. Này sư đệ, lần thứ nh́ tôi xin thỉnh cầu đại đức do đă được thấy, hoặc do đă được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, v́ ḷng thương xót xin đại đức hăy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa. Này sư đệ, lần thứ ba tôi xin thỉnh cầu đại đức do đă được thấy, hoặc do đă được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, v́ ḷng thương xót xin đại đức hăy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.”

 

46. Vị tỳ khưu mới tu nên đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói với vị tỳ khưu trưởng lăo như vầy: “Bạch ngài, tôi xin thỉnh cầu đại đức do đă được thấy, hoặc do đă được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, v́ ḷng thương xót xin đại đức hăy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa. Bạch ngài, lần thứ nh́ tôi xin thỉnh cầu đại đức do đă được thấy, hoặc do đă được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, v́ ḷng thương xót xin đại đức hăy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa. Bạch ngài, lần thứ ba tôi xin thỉnh cầu đại đức do đă được thấy, hoặc do đă được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, v́ ḷng thương xót xin đại đức hăy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.”

 

47. Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có một vị tỳ khưu cư ngụ. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đă khởi ư điều này: “Đức Thế Tôn đă cho phép thỉnh cầu hội chúng đối với năm vị, thỉnh cầu lẫn nhau đối với bốn vị, thỉnh cầu lẫn nhau đối với ba vị, thỉnh cầu lẫn nhau đối với hai vị và ta chỉ có một ḿnh, vậy ta nên thực hiện lễ Pavāraṇā như thế nào?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có một vị tỳ khưu cư ngụ. Này các tỳ khưu, chỗ nào các vị tỳ khưu thường quay trở về là ở giảng đường, hoặc ở mái che, hoặc ở gốc cây, vị tỳ khưu ấy nên quét khu vực ấy, nên đem lại nước uống nước rửa, nên sắp đặt chỗ ngồi, nên thắp sáng đèn, rồi nên ngồi xuống. Nếu có các tỳ khưu khác đi đến th́ nên thực hiện lễ Pavāraṇā với các vị ấy; nếu không có ai đi đến th́ nên chú nguyện rằng: ‘Hôm nay là lễ Pavāraṇā của tôi.’ Nếu không chú nguyện th́ phạm tội dukkaṭa.

 

Này các tỳ khưu, trường hợp ở nơi có năm vị tỳ khưu cư ngụ, không nên chuyển đạt lời thỉnh cầu của một vị rồi thỉnh cầu hội chúng bởi bốn vị. Nếu các vị thỉnh cầu th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, trường hợp ở nơi có bốn vị tỳ khưu cư ngụ, không nên chuyển đạt lời thỉnh cầu của một vị rồi thỉnh cầu lẫn nhau bởi ba vị. Nếu các vị thỉnh cầu th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, trường hợp ở nơi có ba vị tỳ khưu cư ngụ, không nên chuyển đạt lời thỉnh cầu của một vị rồi thỉnh cầu lẫn nhau bởi hai vị. Nếu các vị thỉnh cầu th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, trường hợp ở nơi có hai vị tỳ khưu cư ngụ, không nên chuyển đạt lời thỉnh cầu của một vị rồi chú nguyện bởi một vị. Nếu chú nguyện th́ phạm tội dukkaṭa.”

 

48. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị phạm tội vào ngày lễ Pavāraṇā. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đă khởi ư điều này: “Đức Thế Tôn đă quy định rằng: ‘Vị bị phạm tội không nên tiến hành lễ Pavāraṇā’ và ta th́ bị phạm tội; vậy ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu bị phạm tội vào ngày lễ Pavāraṇā. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến gặp một vị tỳ khưu, nên đắp thượng y một bên vai, nên ngồi chồm hổm, nên chắp tay lên, và nên nói như vầy: - “Bạch đại đức, tôi đă phạm tội tên (như vầy), tôi xin sám hối tội ấy.” Vị kia nên nói rằng: - “(Đại đức) có thấy (tội ấy) không?” - “Thưa có, tôi thấy.” - “(Đại đức) hăy thu thúc trong tương lai.”

 

49. Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu có nghi ngờ về sự phạm tội vào ngày lễ Pavāraṇā. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến gặp một vị tỳ khưu, nên đắp thượng y một bên vai, nên ngồi chồm hổm, nên chắp tay lên, và nên nói như vầy: - “Bạch đại đức, tôi có nghi ngờ về sự phạm (một) tội tên (như vầy), khi nào tôi dứt khỏi hoài nghi khi ấy tôi sẽ sửa chữa tội ấy.” Nói xong th́ lễ Pavāraṇā nên được tiến hành, nhưng không nên làm chướng ngại cho lễ Pavāraṇā chỉ v́ nguyên nhân ấy.

 

50. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc đang được thỉnh cầu th́ nhớ ra tội. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đă khởi ư điều này: “Đức Thế Tôn đă quy định rằng: ‘Vị bị phạm tội không nên thỉnh cầu’ và ta th́ bị phạm tội; vậy ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc đang được thỉnh cầu th́ nhớ ra tội. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên nói với vị tỳ khưu bên cạnh như vầy: “Bạch đại đức, tôi đă phạm tội tên (như vầy), sau khi đứng dậy khỏi đây tôi sẽ sửa chữa tội ấy.” Nói xong th́ nên thỉnh cầu, nhưng không nên làm chướng ngại cho việc thỉnh cầu chỉ v́ nguyên nhân ấy. Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc đang được thỉnh cầu th́ có nghi ngờ về sự phạm tội. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên nói với vị tỳ khưu bên cạnh như vầy: “Bạch đại đức, tôi có nghi ngờ về sự phạm (một) tội tên (như vầy), khi nào tôi dứt khỏi hoài nghi khi ấy tôi sẽ sửa chữa tội ấy.” Nói xong th́ nên thỉnh cầu, nhưng không nên làm chướng ngại cho việc thỉnh cầu chỉ v́ nguyên nhân ấy.

 

51. Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā toàn bộ hội chúng đă phạm tội giống nhau. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đă khởi ư điều này: “Đức Thế Tôn đă quy định rằng: ‘Không nên sám hối tội (đă phạm) giống nhau, không nên ghi nhận tội (đă phạm) giống nhau’ và toàn bộ hội chúng này đă phạm tội giống nhau, vậy chúng ta nên thực hành như thế nào?”

 

52. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā toàn bộ hội chúng đă phạm tội giống nhau. Này các tỳ khưu, ngay trong hôm ấy các vị tỳ khưu ấy nên phái một vị tỳ khưu đi đến trú xứ lân cận (bảo rằng): “Này đại đức, hăy đi và sau khi sửa chữa tội ấy hăy quay trở về, chúng tôi sẽ sửa chữa lại tội ấy trong sự hiện diện của đại đức.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Này các tỳ khưu, nếu không đạt được (như thế) th́ hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 

53. “Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Toàn bộ hội chúng này đă phạm tội giống nhau, khi nào (hội chúng) nh́n thấy vị tỳ khưu khác trong sạch không phạm tội khi ấy (hội chúng) sẽ sửa chữa tội ấy trong sự hiện diện của vị ấy.” Nói xong, th́ lễ Pavāraṇā nên được tiến hành, nhưng không nên làm chướng ngại cho lễ Pavāraṇā chỉ v́ nguyên nhân ấy.

 

54. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā toàn bộ hội chúng có nghi ngờ về sự phạm tội giống nhau. Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực: “Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Toàn bộ hội chúng này có nghi ngờ về sự phạm tội giống nhau, khi nào (hội chúng) dứt khỏi hoài nghi khi ấy (hội chúng) sẽ sửa chữa tội ấy.” Nói xong, th́ lễ Pavāraṇā nên được tiến hành, nhưng không nên làm chướng ngại cho lễ Pavāraṇā chỉ v́ nguyên nhân ấy.

 

Dứt tụng phẩm thứ nhất.

 

--ooOoo--

 

TỤNG PHẨM THỨ HAI

 

1. Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều vị tỳ khưu thường trú đă tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy đă không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi đă thực hiện lễ Pavāraṇā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đă đi đến. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

 

2. - “Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu th́ có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Vô tội đối với các vị đă thỉnh cầu. (1)

 

3. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Các vị đă thỉnh cầu là đă thỉnh cầu tốt đẹp, các vị c̣n lại nên thỉnh cầu. Vô tội đối với các vị đă thỉnh cầu. (2)

 

4. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đă thỉnh cầu là đă thỉnh cầu tốt đẹp, các vị c̣n lại nên thỉnh cầu. Vô tội đối với các vị đă thỉnh cầu. (3)

 

5. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Vô tội đối với các vị đă thỉnh cầu. (4)

 

6. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Các vị đă thỉnh cầu là đă thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đă thỉnh cầu. (5)

 

7. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đă thỉnh cầu là đă thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đă thỉnh cầu. (6)

 

8. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, trong khi tập thể chưa đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Vô tội đối với các vị đă thỉnh cầu. (7)

 

9. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, trong khi tập thể chưa đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Các vị đă thỉnh cầu là đă thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đă thỉnh cầu. (8)

 

10. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, trong khi tập thể chưa đứng lên, (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đă thỉnh cầu là đă thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đă thỉnh cầu. (9)

 

11. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, một số thuộc tập thể đă đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Vô tội đối với các vị đă thỉnh cầu. (10)

 

12. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, một số thuộc tập thể đă đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Các vị đă thỉnh cầu là đă thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đă thỉnh cầu. (11)

 

13. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, một số thuộc tập thể đă đứng lên, (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đă thỉnh cầu là đă thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đă thỉnh cầu. (12)

 

14. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, toàn bộ tập thể đă đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Vô tội đối với các vị đă thỉnh cầu. (13)

 

15. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, toàn bộ tập thể đă đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Các vị đă thỉnh cầu là đă thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đă thỉnh cầu. (14)

 

16. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, toàn bộ tập thể đă đứng lên, (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đă thỉnh cầu là đă thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đă thỉnh cầu. (15)

 

Dứt mười lăm trường hợp vô tội.

 

--ooOoo--

 

 

1. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm và có sự nhận biết là phe nhóm, rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Các vị đă thỉnh cầu th́ phạm tội dukkaṭa. (1)

 

2. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm và có sự nhận biết là phe nhóm, rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Các vị đă thỉnh cầu là đă thỉnh cầu tốt đẹp, các vị c̣n lại nên thỉnh cầu. Các vị đă thỉnh cầu th́ phạm tội dukkaṭa. (2)

 

3. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm và có sự nhận biết là phe nhóm, rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đă thỉnh cầu là đă thỉnh cầu tốt đẹp, các vị c̣n lại nên thỉnh cầu. Các vị đă thỉnh cầu th́ phạm tội dukkaṭa. (3)

 

4. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm và có sự nhận biết là phe nhóm, rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn ... tương đương ... ít hơn đi đến. ―(như trên)― trong khi tập thể chưa đứng lên, ... nhiều hơn ... tương đương ... ít hơn ―(như trên)― một số thuộc tập thể đă đứng lên, ... nhiều hơn ... tương đương ... ít hơn ―(như trên)― toàn bộ tập thể đă đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn ... tương đương ... ít hơn đi đến. Các vị đă thỉnh cầu là đă thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đă thỉnh cầu th́ phạm tội dukkaṭa. (4-15)

 

Dứt mười lăm trường hợp là phe nhóm và có sự nhận biết là phe nhóm.

 

--ooOoo--

 

 

1. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có sự nghi ngờ rằng: “Lễ Pavāraṇā của chúng ta được phép thực hiện hay không được phép?” rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Các vị đă thỉnh cầu th́ phạm tội dukkaṭa. (1)

 

2. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có sự nghi ngờ rằng: “Lễ Pavāraṇā của chúng ta được phép thực hiện hay không được phép?” rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Các vị đă thỉnh cầu là đă thỉnh cầu tốt đẹp, các vị c̣n lại nên thỉnh cầu. Các vị đă thỉnh cầu th́ phạm tội dukkaṭa. (2)

 

3. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có sự nghi ngờ rằng: “Lễ Pavāraṇā của chúng ta được phép thực hiện hay không được phép?” rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đă thỉnh cầu là đă thỉnh cầu tốt đẹp, các vị c̣n lại nên thỉnh cầu. Các vị đă thỉnh cầu th́ phạm tội dukkaṭa. (3)

 

4. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có sự nghi ngờ rằng: “Lễ Pavāraṇā của chúng ta được phép thực hiện hay không được phép?” rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, ―(như trên)― nhiều hơn ... tương đương ... ít hơn ―(như trên)― trong khi tập thể chưa đứng lên, ... nhiều hơn ... tương đương ... ít hơn ―(như trên)― một số thuộc tập thể đă đứng lên, ... nhiều hơn ... tương đương ... ít hơn ―(như trên)― toàn bộ tập thể đă đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn ... tương đương ... ít hơn đi đến. Các vị đă thỉnh cầu là đă thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đă thỉnh cầu th́ phạm tội dukkaṭa. (4-15)

 

Dứt mười lăm trường hợp có sự nghi ngờ.

 

--ooOoo--

 

 

1. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị có sự ngần ngại rằng: “Lễ Pavāraṇā vẫn được phép thực hiện đối với chúng ta, chứ không phải không được phép đối với chúng ta” rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Các vị đă thỉnh cầu th́ phạm tội dukkaṭa. (1)

 

2. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị có sự ngần ngại rằng: “Lễ Pavāraṇā vẫn được phép thực hiện đối với chúng ta, chứ không phải không được phép đối với chúng ta” rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Các vị đă thỉnh cầu là đă thỉnh cầu tốt đẹp, các vị c̣n lại nên thỉnh cầu. Các vị đă thỉnh cầu th́ phạm tội dukkaṭa. (2)

 

3. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị có sự ngần ngại rằng: “Lễ Pavāraṇā vẫn được phép thực hiện đối với chúng ta, chứ không phải không được phép đối với chúng ta” rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đă thỉnh cầu là đă thỉnh cầu tốt đẹp, các vị c̣n lại nên thỉnh cầu. Các vị đă thỉnh cầu th́ phạm tội dukkaṭa. (3)

 

4. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có sự ngần ngại rằng: “Lễ Pavāraṇā vẫn được phép thực hiện đối với chúng ta, chứ không phải không được phép đối với chúng ta” rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, ―(như trên)― nhiều hơn ... tương đương ... ít hơn ―(như trên)― trong khi tập thể chưa đứng lên, ... nhiều hơn ... tương đương ... ít hơn ―(như trên)― một số thuộc tập thể đă đứng lên, ... nhiều hơn ... tương đương ... ít hơn ―(như trên)― toàn bộ tập thể đă đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn ... tương đương ... ít hơn đi đến. Các vị đă thỉnh cầu là đă thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đă thỉnh cầu th́ phạm tội dukkaṭa. (4-15)

 

Dứt mười lăm trường hợp có sự ngần ngại.

 

--ooOoo--

 

 

1. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Các vị đă thỉnh cầu th́ phạm tội thullaccaya. (1)

 

2. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Các vị đă thỉnh cầu là đă thỉnh cầu tốt đẹp, các vị c̣n lại nên thỉnh cầu. Các vị đă thỉnh cầu th́ phạm tội thullaccaya. (2)

 

3. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đă thỉnh cầu là đă thỉnh cầu tốt đẹp, các vị c̣n lại nên thỉnh cầu. Các vị đă thỉnh cầu th́ phạm tội thullaccaya. (3)

 

4. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Các vị đă thỉnh cầu th́ phạm tội thullaccaya. (4)

 

5. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Các vị đă thỉnh cầu là đă thỉnh cầu tốt đẹp, các vị c̣n lại nên thỉnh cầu. Các vị đă thỉnh cầu th́ phạm tội thullaccaya. (5)

 

6. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đă thỉnh cầu là đă thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đă thỉnh cầu th́ phạm tội thullaccaya. (6)

 

7. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, trong khi tập thể chưa đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Các vị đă thỉnh cầu th́ phạm tội thullaccaya. (7)

 

8. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, trong khi tập thể chưa đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Các vị đă thỉnh cầu là đă thỉnh cầu tốt đẹp, các vị c̣n lại nên thỉnh cầu. Các vị đă thỉnh cầu th́ phạm tội thullaccaya. (8)

 

9. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, trong khi tập thể chưa đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đă thỉnh cầu là đă thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đă thỉnh cầu th́ phạm tội thullaccaya. (9)

 

10. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, một số thuộc tập thể đă đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Các vị đă thỉnh cầu th́ phạm tội thullaccaya. (10)

 

11. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, một số thuộc tập thể đă đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Các vị đă thỉnh cầu là đă thỉnh cầu tốt đẹp, các vị c̣n lại nên thỉnh cầu. Các vị đă thỉnh cầu th́ phạm tội thullaccaya. (11)

 

12. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, một số thuộc tập thể đă đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đă thỉnh cầu là đă thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đă thỉnh cầu th́ phạm tội thullaccaya. (12)

 

13. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, toàn bộ tập thể đă đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Các vị đă thỉnh cầu th́ phạm tội thullaccaya. (13)

 

14. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, toàn bộ tập thể đă đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Các vị đă thỉnh cầu là đă thỉnh cầu tốt đẹp, các vị c̣n lại nên thỉnh cầu. Các vị đă thỉnh cầu th́ phạm tội thullaccaya. (14)

 

15. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, toàn bộ tập thể đă đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đă thỉnh cầu là đă thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đă thỉnh cầu th́ phạm tội thullaccaya. (15)

 

Dứt mười lăm trường hợp có dự tính chia rẽ.

 

Dứt hai mươi lăm nhóm ba.

 

--ooOoo--

 

 

1. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Các vị tỳ khưu thường trú khác đang đi vào trong ranh giới,” ―(như trên)― Các vị ấy không biết rằng: “Các vị tỳ khưu thường trú khác đă đi vào trong ranh giới,” ―(như trên)― Các vị ấy không nh́n thấy các vị tỳ khưu thường trú khác đang đi vào trong ranh giới, ―(như trên)― Các vị ấy không nh́n thấy các vị tỳ khưu thường trú khác đă đi vào trong ranh giới, ―(như trên)― Các vị ấy không nghe rằng: “Các vị tỳ khưu thường trú khác đang đi vào trong ranh giới,” ―(như trên)― Các vị ấy không nghe rằng: “Các vị tỳ khưu thường trú khác đă đi vào trong ranh giới,” ―(như trên)― Theo phương thức của một trăm bảy mươi lăm nhóm ba về vị thường trú với vị thường trú, về vị văng lai với vị thường trú, về vị thường trú với vị văng lai, về vị văng lai với vị văng lai, bằng cách thức thêm vào những phần tương tự th́ tạo ra được bảy trăm nhóm ba.

 

2. Này các tỳ khưu, trường hợp ngày mười bốn là của các tỳ khưu thường trú, ngày mười lăm là của các tỳ khưu văng lai. Nếu các vị thường trú (có số lượng) nhiều hơn th́ các vị văng lai nên thuận theo các vị thường trú. Nếu (có số lượng) tương đương th́ các vị văng lai nên thuận theo các vị thường trú. Nếu các vị văng lai (có số lượng) nhiều hơn th́ các vị thường trú nên thuận theo các vị văng lai.

 

3. Này các tỳ khưu, trường hợp ngày mười lăm là của các tỳ khưu thường trú, ngày mười bốn là của các tỳ khưu văng lai. Nếu các vị thường trú (có số lượng) nhiều hơn th́ các vị văng lai nên thuận theo các vị thường trú. Nếu (có số lượng) tương đương th́ các vị văng lai nên thuận theo các vị thường trú. Nếu các vị văng lai (có số lượng) nhiều hơn th́ các vị thường trú nên thuận theo các vị văng lai.

 

4. Này các tỳ khưu, trường hợp ngày đầu tháng là của các tỳ khưu thường trú, ngày mười lăm là của các tỳ khưu văng lai. Nếu các vị thường trú (có số lượng) nhiều hơn và các vị thường trú không mong muốn th́ không nên ban cho sự hợp nhất đến các vị văng lai; các vị văng lai nên đi ra khỏi ranh giới rồi tiến hành lễ Pavāraṇā. Nếu (có số lượng) tương đương và các vị thường trú không mong muốn th́ không nên ban cho sự hợp nhất đến các vị văng lai; các vị văng lai nên đi ra khỏi ranh giới rồi tiến hành lễ Pavāraṇā. Nếu các vị văng lai (có số lượng) nhiều hơn th́ các vị thường trú nên ban cho sự hợp nhất đến các vị văng lai hoặc là nên đi ra khỏi ranh giới.

 

5. Này các tỳ khưu, trường hợp ngày mười lăm là của các tỳ khưu thường trú, ngày đầu tháng là của các tỳ khưu văng lai. Nếu các vị thường trú (có số lượng) nhiều hơn th́ các vị văng lai nên ban cho sự hợp nhất đến các vị thường trú hoặc là nên đi ra khỏi ranh giới. Nếu (có số lượng) tương đương th́ các vị văng lai nên ban cho sự hợp nhất đến các vị thường trú hoặc là nên đi ra khỏi ranh giới. Nếu các vị văng lai (có số lượng) nhiều hơn và các vị văng lai không mong muốn th́ không nên ban cho sự hợp nhất đến các vị thường trú; các vị thường trú nên đi ra khỏi ranh giới rồi tiến hành lễ Pavāraṇā.

 

6. Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu văng lai nh́n thấy sự biểu hiện của việc cư trú, đặc điểm của việc cư trú, hiện tướng của việc cư trú, dấu hiệu của việc cư trú của các vị tỳ khưu thường trú (như là) giường ghế nệm gối được sắp xếp cẩn thận, nước uống nước rửa khéo được bố trí, pḥng ốc được quét dọn sạch sẽ, sau khi nh́n thấy khởi lên nghi ngờ: “Có các tỳ khưu thường trú hay không có?” Các vị nghi ngờ nhưng không t́m kiếm, sau khi không t́m kiếm rồi tiến hành lễ Pavāraṇā th́ phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)― Các vị nghi ngờ rồi t́m kiếm, sau khi t́m kiếm không nh́n thấy, sau khi không nh́n thấy rồi tiến hành lễ Pavāraṇā th́ vô tội. Các vị nghi ngờ rồi t́m kiếm, sau khi t́m kiếm th́ nh́n thấy, sau khi nh́n thấy rồi tiến hành lễ Pavāraṇā chung th́ vô tội. Các vị nghi ngờ rồi t́m kiếm, sau khi t́m kiếm th́ nh́n thấy, sau khi nh́n thấy rồi tiến hành lễ Pavāraṇā riêng rẽ th́ phạm tội dukkaṭa. Các vị nghi ngờ rồi t́m kiếm, sau khi t́m kiếm th́ nh́n thấy, sau khi nh́n thấy có dự tính chia rẽ (nói rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi tiến hành lễ Pavāraṇā th́ phạm tội thullaccaya.

 

7. Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu văng lai nghe được sự biểu hiện của việc cư trú, đặc điểm của việc cư trú, hiện tướng của việc cư trú, dấu hiệu của việc cư trú của các vị tỳ khưu thường trú (như là) tiếng bước chân của những vị đang đi kinh hành, tiếng học bài, tiếng đằng hắng, tiếng hắt hơi, sau khi nghe khởi lên nghi ngờ: “Có các tỳ khưu thường trú hay không có?” Các vị nghi ngờ nhưng không t́m kiếm, sau khi không t́m kiếm rồi tiến hành lễ Pavāraṇā th́ phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)― Các vị nghi ngờ rồi t́m kiếm, sau khi t́m kiếm không nh́n thấy, sau khi không nh́n thấy rồi tiến hành lễ Pavāraṇā th́ vô tội. ―(như trên)― Các vị nghi ngờ rồi t́m kiếm, sau khi t́m kiếm th́ nh́n thấy, sau khi nh́n thấy rồi tiến hành lễ Pavāraṇā chung th́ vô tội. ―(như trên)― Các vị nghi ngờ rồi t́m kiếm, sau khi t́m kiếm th́ nh́n thấy, sau khi nh́n thấy rồi tiến hành lễ Pavāraṇā riêng rẽ th́ phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)― Các vị nghi ngờ rồi t́m kiếm, sau khi t́m kiếm th́ nh́n thấy, sau khi nh́n thấy có dự tính chia rẽ (nói rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi tiến hành lễ Pavāraṇā th́ phạm tội thullaccaya.

 

8. Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu thường trú nh́n thấy sự biểu hiện của việc đi đến, đặc điểm của việc đi đến, hiện tướng của việc đi đến, dấu hiệu của việc đi đến của các tỳ khưu văng lai (như là) b́nh bát khác lạ, y khác lạ, vật lót ngồi khác lạ, sự vung văi nước rửa các bàn chân, sau khi nh́n thấy khởi lên nghi ngờ: “Có các vị tỳ khưu văng lai hay không có?” Các vị nghi ngờ nhưng không t́m kiếm, sau khi không t́m kiếm rồi tiến hành lễ Pavāraṇā th́ phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)― Các vị nghi ngờ rồi t́m kiếm, sau khi t́m kiếm không nh́n thấy, sau khi không nh́n thấy rồi tiến hành lễ Pavāraṇā th́ vô tội. ―(như trên)― Các vị nghi ngờ rồi t́m kiếm, sau khi t́m kiếm th́ nh́n thấy, sau khi nh́n thấy rồi tiến hành lễ Pavāraṇā chung th́ vô tội. ―(như trên)― Các vị nghi ngờ rồi t́m kiếm, sau khi t́m kiếm th́ nh́n thấy, sau khi nh́n thấy rồi tiến hành lễ Pavāraṇā riêng rẽ th́ phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)― Các vị nghi ngờ rồi t́m kiếm, sau khi t́m kiếm th́ nh́n thấy, sau khi nh́n thấy có dự tính chia rẽ (nói rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi tiến hành lễ Pavāraṇā th́ phạm tội thullaccaya.

 

9. Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu thường trú nghe được sự biểu hiện của việc đi đến, đặc điểm của việc đi đến, hiện tướng của việc đi đến, dấu hiệu của việc đi đến của các tỳ khưu văng lai (như là) tiếng bước chân của các vị đang đi đến, tiếng động gây nên bởi các đôi dép, tiếng đằng hắng, tiếng hắt hơi, sau khi nghe khởi lên nghi ngờ: “Có các vị tỳ khưu văng lai hay không có?” Các vị nghi ngờ nhưng không t́m kiếm, sau khi không t́m kiếm rồi tiến hành lễ Pavāraṇā th́ phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)― Các vị nghi ngờ rồi t́m kiếm, sau khi t́m kiếm không nh́n thấy, sau khi không nh́n thấy rồi tiến hành lễ Pavāraṇā th́ vô tội. ―(như trên)― Các vị nghi ngờ rồi t́m kiếm, sau khi t́m kiếm th́ nh́n thấy, sau khi nh́n thấy rồi tiến hành lễ Pavāraṇā chung th́ vô tội. ―(như trên)― Các vị nghi ngờ rồi t́m kiếm, sau khi t́m kiếm th́ nh́n thấy, sau khi nh́n thấy rồi tiến hành lễ Pavāraṇā riêng rẽ th́ phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)― Các vị nghi ngờ rồi t́m kiếm, sau khi t́m kiếm th́ nh́n thấy, sau khi nh́n thấy có dự tính chia rẽ (nói rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi tiến hành lễ Pavāraṇā th́ phạm tội thullaccaya.

10. Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu văng lai nh́n thấy các tỳ khưu thường trú thuộc nhóm cộng trú khác. Các vị ấy nhận lầm là thuộc cùng nhóm cộng trú, sau khi nhận lầm là thuộc cùng nhóm cộng trú rồi không hỏi, sau khi không hỏi rồi tiến hành lễ Pavāraṇā chung th́ vô tội. ―(như trên)― Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi vẫn không thay đổi (quan điểm), sau khi không thay đổi (quan điểm) lại tiến hành lễ Pavāraṇā chung th́ phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)― Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi vẫn không thay đổi (quan điểm), sau khi không thay đổi (quan điểm) rồi tiến hành lễ Pavāraṇā riêng rẽ th́ vô tội.

 

11. Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu văng lai nh́n thấy các tỳ khưu thường trú thuộc cùng nhóm cộng trú. Các vị ấy nhận lầm thuộc nhóm cộng trú khác, sau khi nhận lầm thuộc nhóm cộng trú khác lại không hỏi, sau khi không hỏi lại tiến hành lễ Pavāraṇā chung th́ phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)― Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi rồi thay đổi (quan điểm), sau khi thay đổi (quan điểm) lại tiến hành lễ Pavāraṇā riêng rẽ th́ phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)― Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi rồi thay đổi (quan điểm), sau khi thay đổi (quan điểm) rồi tiến hành lễ Pavāraṇā chung th́ vô tội.

 

12. Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu thường trú nh́n thấy các tỳ khưu văng lai thuộc nhóm cộng trú khác. Các vị ấy nhận lầm thuộc cùng nhóm cộng trú, sau khi nhận lầm là thuộc cùng nhóm cộng trú rồi không hỏi, sau khi không hỏi rồi tiến hành lễ Pavāraṇā chung th́ vô tội. ―(như trên)― Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi vẫn không thay đổi (quan điểm), sau khi không thay đổi (quan điểm) lại tiến hành lễ Pavāraṇā chung th́ phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)― Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi vẫn không thay đổi (quan điểm), sau khi không thay đổi (quan điểm) rồi tiến hành lễ Pavāraṇā riêng rẽ th́ vô tội.

 

13. Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu thường trú nh́n thấy các tỳ khưu văng lai thuộc cùng nhóm cộng trú. Các vị ấy nhận lầm thuộc nhóm cộng trú khác, sau khi nhận lầm thuộc nhóm cộng trú khác rồi không hỏi, sau khi không hỏi lại tiến hành lễ Pavāraṇā chung th́ phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)― Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi rồi thay đổi (quan điểm), sau khi thay đổi (quan điểm) lại tiến hành lễ Pavāraṇā riêng rẽ th́ phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)― Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi rồi thay đổi (quan điểm), sau khi thay đổi (quan điểm) rồi tiến hành lễ Pavāraṇā chung th́ vô tội.

 

14. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

 

15. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

 

16. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

 

17. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

 

18. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

 

19. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

 

20. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

 

21. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

 

22. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

 

23. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

 

24. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

 

25. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

 

26. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

 

27. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

 

28. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

 

29. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

 

30. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

 

31. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

 

32. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu và các tỳ khưu ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu biết rằng: “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”

 

33. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu ―(như trên)― chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu và các tỳ khưu ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu biết rằng: “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”

 

34. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā vị tỳ khưu từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu ―(như trên)― nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu ―(như trên)― chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu và các tỳ khưu ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu biết rằng: “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”

 

35. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā vị tỳ khưu từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu ―(như trên)― nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu ―(như trên)― chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu và các tỳ khưu ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu biết rằng: “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”

 

36. Này các tỳ khưu, không nên thỉnh cầu với hội chúng đă ngồi xuống có vị tỳ khưu ni; vị nào thỉnh cầu th́ phạm tội dukkaṭa.

 

37. Này các tỳ khưu, không nên thỉnh cầu với hội chúng đă ngồi xuống có cô ni tu tập sự ―(như trên)― có vị sa di ―(như trên)― có vị sa di ni ―(như trên)― có người đă từ bỏ điều học ―(như trên)― có vị đă phạm tội cực nặng; vị nào thỉnh cầu th́ phạm tội dukkaṭa.

 

38. Không nên thỉnh cầu với hội chúng đă ngồi xuống có vị bị án treo trong việc không nh́n nhận tội; vị nào thỉnh cầu th́ nên được hành xử theo pháp.

 

39. Không nên thỉnh cầu với hội chúng đă ngồi xuống có vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi ―(như trên)― có vị bị án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác; vị nào thỉnh cầu th́ nên được hành xử theo pháp.

 

40. Này các tỳ khưu, không nên thỉnh cầu với hội chúng đă ngồi xuống có kẻ vô căn; vị nào thỉnh cầu th́ phạm tội dukkaṭa.

 

41. Không nên thỉnh cầu với hội chúng đă ngồi xuống có kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu) ―(như trên)― có kẻ đă đi theo ngoại đạo ―(như trên)― có loài thú ―(như trên)― có kẻ giết mẹ ―(như trên)― có kẻ giết cha ―(như trên)― có kẻ giết A-la-hán ―(như trên)― có kẻ làm nhơ tỳ khưu ni ―(như trên)― có kẻ chia rẽ hội chúng ―(như trên)― có kẻ làm chảy máu (đức Phật) ―(như trên)― có kẻ lưỡng căn; vị nào thỉnh cầu th́ phạm tội dukkaṭa.

 

42. Này các tỳ khưu, lễ Pavāraṇā không nên tiến hành với việc trao ra sự trong sạch của vị hành parivāsa, trừ trường hợp tập thể không bị cách ly.[2]

 

43. Này các tỳ khưu, không nên tiến hành lễ Pavāraṇā không nhằm ngày Pavāraṇā trừ phi vào lúc hợp nhất hội chúng.

 

Dứt tụng phẩm thứ nh́.

 

--ooOoo--

 

TỤNG PHẨM THỨ BA

 

1. Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ trong xứ Kosala vào ngày lễ Pavāraṇā đă có sự sợ hăi v́ đám lục lâm. Các vị tỳ khưu đă không thể thỉnh cầu ba lần đọc. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép thỉnh cầu hai lần đọc.” Đă có sự sợ hăi dữ dội hơn v́ đám lục lâm. Các vị tỳ khưu đă không thể thỉnh cầu hai lần đọc. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép thỉnh cầu một lần đọc.” Đă có sự sợ hăi dữ dội hơn v́ đám lục lâm. Các vị tỳ khưu đă không thể thỉnh cầu một lần đọc. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép thỉnh cầu (cùng một lượt) theo sự đồng năm tu.”

 

2. Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā trong khi dân chúng c̣n đang cúng dường vật thí th́ đêm đă gần tàn. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đă khởi ư rằng: “Trong khi những người này c̣n đang cúng dường vật thí th́ đêm đă gần tàn, nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc th́ hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và khi ấy đêm nay sẽ hừng sáng, vậy chúng ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā trong khi dân chúng c̣n đang cúng dường vật thí th́ đêm đă gần tàn. Nếu các vị tỳ khưu ở đó khởi ư như vầy: ‘Trong khi những người này c̣n đang cúng dường vật thí th́ đêm đă gần tàn, nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc th́ hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và khi ấy đêm nay sẽ hừng sáng.’ Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực: ‘Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Trong khi dân chúng c̣n đang cúng dường vật thí th́ đêm đă gần tàn, nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc th́ hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và khi ấy đêm nay sẽ hừng sáng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thỉnh cầu hai lần đọc —(như trên)— một lần đọc —(như trên)— theo sự đồng năm tu.’

 

3. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā, trong khi các vị tỳ khưu đang giảng Pháp —(như trên)— trong khi các vị chuyên về Kinh đang trùng tụng về Kinh —(như trên)— trong khi các vị chuyên về Luật đang hỏi về Luật —(như trên)— trong khi các vị Pháp sư đang thảo luận về Pháp —(như trên)— trong khi các vị tỳ khưu đang tranh căi th́ đêm đă gần tàn. Nếu các vị tỳ khưu ở đó khởi ư như vầy: ‘Trong khi các vị tỳ khưu đang tranh căi th́ đêm đă gần tàn, nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc th́ hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và khi ấy đêm nay sẽ hừng sáng.’ Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực: ‘Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Trong khi các vị tỳ khưu đang tranh căi th́ đêm đă gần tàn, nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc th́ hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và khi ấy đêm nay sẽ hừng sáng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thỉnh cầu hai lần đọc —(như trên)— một lần đọc —(như trên)— theo sự đồng năm tu.’”

 

4. Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ trong xứ Kosala vào ngày lễ Pavāraṇā, có hội chúng tỳ khưu đông đảo đă tụ hội lại. Chỗ trú mưa th́ ít ỏi và đám mây đen lớn đă kéo đến. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đă khởi ư điều này: “Hội chúng tỳ khưu đông đảo này đă tụ hội lại. Chỗ trú mưa th́ ít ỏi và đám mây đen lớn đă kéo đến. Nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc th́ hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và đám mây đen này sẽ đổ mưa, vậy chúng ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā, có hội chúng tỳ khưu đông đảo tụ hội lại. Chỗ trú mưa th́ ít ỏi và đám mây đen lớn đă kéo đến. Nếu các vị tỳ khưu ở đó khởi ư như vầy: ‘Hội chúng tỳ khưu đông đảo này đă tụ hội lại. Chỗ trú mưa th́ ít ỏi và đám mây đen lớn đă kéo đến. Nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc th́ hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và đám mây đen này sẽ đổ mưa.’ Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực: ‘Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Hội chúng tỳ khưu đông đảo này đă tụ hội lại. Chỗ trú mưa th́ ít ỏi và đám mây đen lớn đă kéo đến. Nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc th́ hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và đám mây đen này sẽ đổ mưa. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thỉnh cầu hai lần đọc —(như trên)— một lần đọc —(như trên)— theo sự đồng năm tu.’

 

5. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā, có sự nguy hiểm từ đức vua ―(như trên)― có sự nguy hiểm v́ trộm cướp —(như trên)— có sự nguy hiểm v́ hỏa hoạn —(như trên)— có sự nguy hiểm v́ nước ngập —(như trên)— có sự nguy hiểm v́ loài người —(như trên)— có sự nguy hiểm v́ phi nhân —(như trên)— có sự nguy hiểm v́ thú dữ —(như trên)— có sự nguy hiểm v́ rắn —(như trên)— có sự nguy hiểm cho mạng sống —(như trên)— có sự nguy hiểm cho Phạm hạnh. Nếu các vị tỳ khưu ở đó khởi ư như vầy: ‘Đây là sự nguy hiểm cho Phạm hạnh. Nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc th́ hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và điều này sẽ là sự nguy hiểm cho Phạm hạnh.’ Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực: ‘Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Đây là sự nguy hiểm cho Phạm hạnh. Nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc th́ hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và điều này sẽ là sự nguy hiểm cho Phạm hạnh. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thỉnh cầu hai lần đọc —(như trên)— một lần đọc —(như trên)— theo sự đồng năm tu.’”

 

6. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư là những vị có phạm tội tiến hành lễ Pavāraṇā. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, vị có phạm tội không nên thỉnh cầu; vị nào thỉnh cầu th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, vị nào có phạm tội mà thỉnh cầu th́ ta cho phép buộc tội vị ấy sau khi đă thỉnh ư trước.”

 

7. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư trong khi được thỉnh ư trước đă không muốn để cho thỉnh ư. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép đ́nh chỉ sự thỉnh cầu đối với vị không cho thỉnh ư. Và này các tỳ khưu, nên đ́nh chỉ như vầy: Vào ngày lễ Pavāraṇā là ngày mười bốn hoặc mười lăm, trong khi nhân vật ấy có hiện diện ở giữa hội chúng, nên tŕnh lên rằng: ‘Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Nhân vật tên (như vầy) có phạm tội. Tôi đ́nh chỉ sự thỉnh cầu của vị ấy. Không nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của vị ấy.’ Sự thỉnh cầu đă được đ́nh chỉ.”

 

8. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Trước hết, các vị tỳ khưu hiền thiện sẽ đ́nh chỉ sự thỉnh cầu của chúng ta” nên ra tay trước đ́nh chỉ sự thỉnh cầu của các vị tỳ khưu trong sạch không phạm tội không có cơ sở không có nguyên nhân. Các vị cũng đ́nh chỉ sự thỉnh cầu của các vị đă thỉnh cầu xong. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, không nên đ́nh chỉ sự thỉnh cầu của các vị tỳ khưu trong sạch không phạm tội khi không có cơ sở không có nguyên nhân; vị nào đ́nh chỉ th́ phạm tội dukkaṭa. Và này các tỳ khưu, không nên đ́nh chỉ sự thỉnh cầu của các vị đă thỉnh cầu xong; vị nào đ́nh chỉ th́ phạm tội dukkaṭa.”

 

9. Này các tỳ khưu, như vầy là sự thỉnh cầu bị đ́nh chỉ, như vầy là không bị đ́nh chỉ. Này các tỳ khưu, thế nào là sự thỉnh cầu không bị đ́nh chỉ? Này các tỳ khưu, trong sự thỉnh cầu với ba lần đọc, nếu đ́nh chỉ sự thỉnh cầu vào lúc đă đọc, đă nói, đă hoàn tất th́ sự thỉnh cầu không bị đ́nh chỉ. Này các tỳ khưu, trong sự thỉnh cầu hai lần đọc, nếu —(như trên)— Này các tỳ khưu, trong sự thỉnh cầu một lần đọc, nếu —(như trên)— Này các tỳ khưu, trong sự thỉnh cầu (đọc một lượt) theo sự đồng năm tu, nếu đ́nh chỉ sự thỉnh cầu vào lúc đă đọc, đă nói, đă hoàn tất th́ sự thỉnh cầu không bị đ́nh chỉ. Này các tỳ khưu, như thế là sự thỉnh cầu không bị đ́nh chỉ.

 

10. Này các tỳ khưu, thế nào là sự thỉnh cầu bị đ́nh chỉ? Này các tỳ khưu, trong sự thỉnh cầu ba lần đọc, nếu đ́nh chỉ sự thỉnh cầu vào lúc đă đọc, đă nói, (nhưng) chưa được hoàn tất th́ sự thỉnh cầu bị đ́nh chỉ. Này các tỳ khưu, trong sự thỉnh cầu hai lần đọc, nếu —(như trên)— Này các tỳ khưu, trong sự thỉnh cầu một lần đọc, nếu —(như trên)— Này các tỳ khưu, trong sự thỉnh cầu (đọc một lượt) theo sự đồng năm tu, nếu đ́nh chỉ sự thỉnh cầu vào lúc đă đọc, đă nói, (nhưng) chưa được hoàn tất th́ sự thỉnh cầu bị đ́nh chỉ. Này các tỳ khưu, như thế là sự thỉnh cầu bị đ́nh chỉ.

 

11. Này các tỳ khưu, trường hợp trong ngày lễ Pavāraṇā, có vị tỳ khưu đ́nh chỉ sự thỉnh cầu của vị tỳ khưu. Nếu các vị tỳ khưu khác biết về vị tỳ khưu (đ́nh chỉ) ấy rằng: “Đại đức này có sở hành về thân không được trong sạch, có sở hành về khẩu không được trong sạch, có sự nuôi mạng không được trong sạch, (là vị) ngu dốt, không kinh nghiệm, không có năng lực đối đáp lại khi bị tra hỏi.” Sau khi đă răn đe rằng: “Này tỳ khưu, thôi đi! Chớ có sự xung đột, chớ có sự căi cọ, chớ có sự tranh luận, chớ có sự tranh tụng!” rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā.

 

12. Này các tỳ khưu, trường hợp trong ngày lễ Pavāraṇā, có vị tỳ khưu đ́nh chỉ sự thỉnh cầu của vị tỳ khưu. Nếu các vị tỳ khưu khác biết về vị tỳ khưu (đ́nh chỉ) ấy rằng: “Đại đức này có sở hành về thân được trong sạch, có sở hành về khẩu không được trong sạch, có sự nuôi mạng không được trong sạch, (là vị) ngu dốt, không kinh nghiệm, không có năng lực đối đáp lại khi bị tra hỏi.” Sau khi đă răn đe rằng: “Này tỳ khưu, thôi đi! Chớ có sự xung đột, chớ có sự căi cọ, chớ có sự tranh luận, chớ có sự tranh tụng!” rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā.

 

13. Này các tỳ khưu, trường hợp trong ngày lễ Pavāraṇā, có vị tỳ khưu đ́nh chỉ sự thỉnh cầu của vị tỳ khưu. Nếu các vị tỳ khưu khác biết về vị tỳ khưu (đ́nh chỉ) ấy rằng: “Đại đức này có sở hành về thân được trong sạch, có sở hành về khẩu được trong sạch, có sự nuôi mạng không được trong sạch, (là vị) ngu dốt, không kinh nghiệm, không có năng lực đối đáp lại khi bị tra hỏi.” Sau khi đă răn đe rằng: “Này tỳ khưu, thôi đi! Chớ có sự xung đột, chớ có sự căi cọ, chớ có sự tranh luận, chớ có sự tranh tụng!” rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā.

 

14. Này các tỳ khưu, trường hợp trong ngày lễ Pavāraṇā, có vị tỳ khưu đ́nh chỉ sự thỉnh cầu của vị tỳ khưu. Nếu các vị tỳ khưu khác biết về vị tỳ khưu (đ́nh chỉ) ấy rằng: “Đại đức này có sở hành về thân được trong sạch, có sở hành về khẩu được trong sạch, có sự nuôi mạng được trong sạch, (là vị) ngu dốt, không kinh nghiệm, không có năng lực đối đáp lại khi bị tra hỏi.” Sau khi đă răn đe rằng: “Này tỳ khưu, thôi đi! Chớ có sự xung đột, chớ có sự căi cọ, chớ có sự tranh luận, chớ có sự tranh tụng!” rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā.

 

15. Này các tỳ khưu, trường hợp trong ngày lễ Pavāraṇā, có vị tỳ khưu đ́nh chỉ sự thỉnh cầu của vị tỳ khưu. Nếu các vị tỳ khưu khác biết về vị tỳ khưu (đ́nh chỉ) ấy rằng: “Đại đức này có sở hành về thân được trong sạch, có sở hành về khẩu được trong sạch, có sự nuôi mạng được trong sạch, (là vị) sáng trí, có kinh nghiệm, có năng lực đối đáp lại khi bị tra hỏi.” Vị (đ́nh chỉ) ấy nên được nói như sau: “Này đại đức, việc đại đức đ́nh chỉ sự thỉnh cầu của vị tỳ khưu này, đại đức đ́nh chỉ vị này do điều ǵ? Đại đức đ́nh chỉ do sự hư hỏng về giới, đ́nh chỉ do sự hư hỏng về hạnh kiểm, đ́nh chỉ do sự hư hỏng về tri kiến?”

 

16. Nếu vị ấy nói như vầy: “Hoặc là tôi đ́nh chỉ do sự hư hỏng về giới, hoặc là tôi đ́nh chỉ do sự hư hỏng về hạnh kiểm, hoặc là tôi đ́nh chỉ do sự hư hỏng về tri kiến.” Vị ấy nên được nói như sau: “Vậy vị đại đức có biết sự hư hỏng về giới không, có biết sự hư hỏng về hạnh kiểm không, có biết sự hư hỏng về tri kiến không?” Nếu vị ấy nói như vầy: “Này các đại đức, tôi biết sự hư hỏng về giới, tôi biết sự hư hỏng về hạnh kiểm, tôi biết sự hư hỏng về tri kiến.” Vị ấy nên được nói như sau: “Này đại đức, điều ǵ là sự hư hỏng về giới, điều ǵ là sự hư hỏng về hạnh kiểm, điều ǵ là sự hư hỏng về tri kiến?”

 

17. Nếu vị ấy nói như vầy: “Bốn pārājika, mười ba saṅghādisesa, đó là sự hư hỏng về giới. Tội thullaccaya, tội pācittiya, tội pāṭidesanīya, tội dukkaṭa, tội dubbhāsita, đó là sự hư hỏng về hạnh kiểm. Tà kiến, tri kiến cực đoan, đó là sự hư hỏng về tri kiến.” Vị ấy nên được nói như sau: “Này đại đức, việc đại đức đ́nh chỉ sự thỉnh cầu của vị tỳ khưu này, có phải đại đức đ́nh chỉ do đă được thấy, đ́nh chỉ do đă được nghe, đ́nh chỉ do sự nghi ngờ?”

 

18. Nếu vị ấy nói như vầy: “Hoặc là tôi đ́nh chỉ do đă được thấy, hoặc là tôi đ́nh chỉ do đă được nghe, hoặc là tôi đ́nh chỉ do sự nghi ngờ.” Vị ấy nên được nói như sau: “Này đại đức, việc đại đức đ́nh chỉ sự thỉnh cầu của vị tỳ khưu này do đă được thấy, đại đức đă thấy ǵ? Đại đức đă thấy thế nào? Đại đức đă thấy khi nào? Đại đức đă thấy ở đâu? Có phải đă thấy vị này đang phạm pārājika, đă thấy đang phạm saṅghādisesa, đă thấy đang phạm tội thullaccaya ...tội pācittiya ...tội pāṭidesanīya ...tội dukkaṭa ...tội dubbhāsita? Và đại đức đă ở đâu, và vị tỳ khưu này đă ở đâu, và đại đức đă làm ǵ, và vị tỳ khưu này đă làm ǵ?”

 

19. Nếu vị ấy nói như vầy: “Này các đại đức, tôi không đ́nh chỉ sự thỉnh cầu của vị tỳ khưu này do đă được thấy, tuy nhiên tôi đ́nh chỉ sự thỉnh cầu do đă được nghe.” Vị ấy nên được nói như sau: “Này đại đức, việc đại đức đ́nh chỉ sự thỉnh cầu của vị tỳ khưu này do đă được nghe, đại đức đă nghe ǵ? Đại đức đă nghe thế nào? Đại đức đă nghe khi nào? Đại đức đă nghe ở đâu? Có phải đă nghe rằng: ‘Vị này đă phạm tội pārājika’? Có phải đă nghe rằng: ‘Vị này đă phạm tội saṅghādisesa’? Có phải đă nghe rằng: ‘Vị này đă phạm tội thullaccaya ...tội pācittiya ...tội pāṭidesanīya ...tội dukkaṭa ...tội dubbhāsita’? Có phải đại đức đă nghe từ vị tỳ khưu, đă nghe từ vị tỳ khưu ni, đă nghe từ cô ni tu tập sự, đă nghe từ vị sa di, đă nghe từ vị sa di ni, đă nghe từ nam cư sĩ, đă nghe từ nữ cư sĩ, đă nghe từ các đức vua, đă nghe từ các quan đại thần của đức vua, đă nghe từ các ngoại đạo, đă nghe từ các đệ tử của ngoại đạo?”

 

20. Nếu vị ấy nói như vầy: “Này các đại đức, tôi không đ́nh chỉ sự thỉnh cầu của vị tỳ khưu này do đă được nghe, tuy nhiên tôi đ́nh chỉ sự thỉnh cầu do sự nghi ngờ.” Vị ấy nên được nói như sau: “Này đại đức, việc đại đức đ́nh chỉ sự thỉnh cầu của vị tỳ khưu này do sự nghi ngờ, đại đức nghi ngờ ǵ, nghi ngờ như thế nào, nghi ngờ khi nào, nghi ngờ ở đâu? Có phải đại đức nghi ngờ rằng: ‘Vị này đă phạm tội pārājika’? Có phải đại đức nghi ngờ rằng: ‘Vị này đă phạm tội saṅghādisesa’? Có phải đại đức nghi ngờ rằng: ‘Vị này đă phạm tội thullaccaya ...tội pācittiya ...tội pāṭidesanīya ...tội dukkaṭa ...tội dubbhāsita’? Có phải đại đức nghi ngờ sau khi nghe từ vị tỳ khưu, nghi ngờ sau khi nghe từ vị tỳ khưu ni, nghi ngờ sau khi nghe từ cô ni tu tập sự, nghi ngờ sau khi nghe từ vị sa di, nghi ngờ sau khi nghe từ vị sa di ni, nghi ngờ sau khi nghe từ nam cư sĩ, nghi ngờ sau khi nghe từ nữ cư sĩ, nghi ngờ sau khi nghe từ các đức vua, nghi ngờ sau khi nghe từ các quan đại thần của đức vua, nghi ngờ sau khi nghe từ các ngoại đạo, nghi ngờ sau khi nghe từ các đệ tử của ngoại đạo?”

 

21. Nếu vị ấy nói như vầy: “Này các đại đức, tôi không đ́nh chỉ sự thỉnh cầu của vị tỳ khưu này do sự nghi ngờ, hơn nữa tôi cũng không biết do điều ǵ tôi đ́nh chỉ sự thỉnh cầu của vị tỳ khưu này.” Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu buộc tội không làm thỏa măn tâm của các vị đồng Phạm hạnh thông minh bằng lời đối đáp th́ vừa đủ cho lời nói rằng: “Vị bị buộc tội là không có tội.” Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu buộc tội làm thỏa măn tâm của các vị đồng Phạm hạnh thông minh bằng lời đối đáp th́ vừa đủ cho lời nói rằng: “Vị bị buộc tội là có tội.”

 

22. Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu buộc tội thú nhận là (vị kia) đă bị bôi nhọ với tội pārājika không có căn cứ, sau khi khép (vị buộc tội) vào tội saṅghādisesa rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā. Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu buộc tội thú nhận là (vị kia) đă bị bôi nhọ với tội saṅghādisesa không có căn cứ, sau khi cho hành xử (vị buộc tội) theo Pháp rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā. Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu buộc tội thú nhận là (vị kia) đă bị bôi nhọ với tội thullaccaya, ... với tội pācittiya, ... với tội pāṭidesanīya, ... với tội dukkaṭa, ... với tội dubbhāsita không có căn cứ, sau khi cho hành xử (vị buộc tội) theo Pháp rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā.

 

23. Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu bị buộc tội thú nhận rằng: “Đă phạm tội pārājika,” sau khi trục xuất rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā. Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu bị buộc tội thú nhận rằng: “Đă phạm tội saṅghādisesa,” sau khi khép vào tội saṅghādisesa rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā. Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu bị buộc tội thú nhận rằng: “Đă phạm tội thullaccaya ... tội pācittiya ... tội pāṭidesanīya ... tội dukkaṭa ... tội dubbhāsita,” sau khi cho hành xử (vị ấy) theo Pháp rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā.

 

24. Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraṇā có vị tỳ khưu phạm tội thullaccaya. Một số tỳ khưu có quan điểm là tội thullaccaya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội saṅghādisesa. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu nào có quan điểm là tội thullaccaya, này các tỳ khưu, các vị ấy nên dẫn vị ấy đi ra một góc, sau khi cho (vị ấy) hành xử theo Pháp, rồi đi đến gặp hội chúng và nên nói như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu ấy phạm tội nào, tội ấy đă được sửa chữa theo Pháp cho vị ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā.”

 

Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraṇā có vị tỳ khưu phạm tội thullaccaya. Một số tỳ khưu có quan điểm là tội thullaccaya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội pācittiya, ―(như trên)― Một số tỳ khưu có quan điểm là tội thullaccaya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội pāṭidesanīya. ―(như trên)― Một số tỳ khưu có quan điểm là tội thullaccaya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội dukkaṭa. ―(như trên)― Một số tỳ khưu có quan điểm là tội thullaccaya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội dubbhāsita. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu nào có quan điểm là tội thullaccaya, này các tỳ khưu, các vị ấy nên dẫn vị ấy đi ra một góc, sau khi cho (vị ấy) hành xử theo Pháp, rồi đi đến gặp hội chúng và nên nói như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu ấy phạm tội nào, tội ấy đă được sửa chữa theo Pháp cho vị ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā.”

 

25. Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraṇā có vị tỳ khưu đă phạm tội pācittiya. Một số tỳ khưu có quan điểm là tội pācittiya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội saṅghādisesa. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu nào có quan điểm là tội pācittiya, này các tỳ khưu, các vị ấy nên dẫn vị ấy đi ra một góc, sau khi cho (vị ấy) hành xử theo Pháp, rồi đi đến gặp hội chúng và nên nói như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu ấy phạm tội nào, tội ấy đă được sửa chữa theo Pháp cho vị ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā.”

 

Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraṇā có vị tỳ khưu đă phạm tội pācittiya. Một số tỳ khưu có quan điểm là tội pācittiya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội thullaccaya. ―(như trên)― Một số tỳ khưu có quan điểm là tội pācittiya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội pāṭidesanīya. ―(như trên)― Một số tỳ khưu có quan điểm là tội pācittiya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội dukkaṭa. Một số tỳ khưu có quan điểm là tội pācittiya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội dubbhāsita. ―(như trên)― Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu nào có quan điểm là tội pācittiya, này các tỳ khưu, các vị ấy nên dẫn vị ấy đi ra một góc, sau khi cho (vị ấy) hành xử theo Pháp, rồi đi đến gặp hội chúng và nên nói như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu ấy phạm tội nào, tội ấy đă được sửa chữa theo Pháp cho vị ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā.”

 

26. Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraṇā có vị tỳ khưu đă phạm tội pāṭidesanīya. Một số tỳ khưu có quan điểm là tội pāṭidesanīya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội saṅghādisesa. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu nào có quan điểm là tội pāṭidesanīya, này các tỳ khưu, các vị ấy nên dẫn vị ấy đi ra một góc, sau khi cho (vị ấy) hành xử theo Pháp, rồi đi đến gặp hội chúng và nên nói như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu ấy phạm tội nào, tội ấy đă được sửa chữa theo Pháp cho vị ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā.”

 

Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraṇā có vị tỳ khưu đă phạm tội pāṭidesanīya. Một số tỳ khưu có quan điểm là tội pāṭidesanīya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội thullaccaya. ―(như trên)― Một số tỳ khưu có quan điểm là tội pāṭidesanīya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội pācittiya. ―(như trên)― Một số tỳ khưu có quan điểm là tội pāṭidesanīya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội dukkaṭa. Một số tỳ khưu có quan điểm là tội pāṭidesanīya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội dubbhāsita. ―(như trên)― Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu nào có quan điểm là tội pāṭidesanīya, này các tỳ khưu, các vị ấy nên dẫn vị ấy đi ra một góc, sau khi cho (vị ấy) hành xử theo Pháp, rồi đi đến gặp hội chúng và nên nói như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu ấy phạm tội nào, tội ấy đă được sửa chữa theo Pháp cho vị ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā.”

 

27. Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraṇā có vị tỳ khưu đă phạm tội dukkaṭa. Một số tỳ khưu có quan điểm là tội dukkaṭa, một số tỳ khưu có quan điểm là tội saṅghādisesa. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu nào có quan điểm là tội dukkaṭa, này các tỳ khưu, các vị ấy nên dẫn vị ấy đi ra một góc, sau khi cho (vị ấy) hành xử theo Pháp, rồi đi đến gặp hội chúng và nên nói như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu ấy phạm tội nào, tội ấy đă được sửa chữa theo Pháp cho vị ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā.”

 

Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraṇā có vị tỳ khưu đă phạm tội dukkaṭa. Một số tỳ khưu có quan điểm là tội dukkaṭa, một số tỳ khưu có quan điểm là tội thullaccaya. ―(như trên)― Một số tỳ khưu có quan điểm là tội dukkaṭa, một số tỳ khưu có quan điểm là tội pācittiya. ―(như trên)― Một số tỳ khưu có quan điểm là tội dukkaṭa, một số tỳ khưu có quan điểm là tội pāṭidesanīya. ―(như trên)― Một số tỳ khưu có quan điểm là tội dukkaṭa, một số tỳ khưu có quan điểm là tội dubbhāsita. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu nào có quan điểm là tội dukkaṭa, này các tỳ khưu, các vị ấy nên dẫn vị ấy đi ra một góc, sau khi cho (vị ấy) hành xử theo Pháp, rồi đi đến gặp hội chúng và nên nói như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu ấy phạm tội nào, tội ấy đă được sửa chữa theo Pháp cho vị ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā.”

 

28. Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraṇā có vị tỳ khưu đă phạm tội dubbhāsita. Một số tỳ khưu có quan điểm là tội dubbhāsita, một số tỳ khưu có quan điểm là tội saṅghādisesa. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu nào có quan điểm là tội dubbhāsita, này các tỳ khưu, các vị ấy nên dẫn vị ấy đi ra một góc, sau khi cho (vị ấy) hành xử theo Pháp, rồi đi đến gặp hội chúng và nên nói như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu ấy phạm tội nào, tội ấy đă được sửa chữa theo Pháp cho vị ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā.”

 

Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraṇā có vị tỳ khưu đă phạm tội dubbhāsita. Một số tỳ khưu có quan điểm là tội dubbhāsita, một số tỳ khưu có quan điểm là tội thullaccaya. ―(như trên)― Một số tỳ khưu có quan điểm là tội dubbhāsita, một số tỳ khưu có quan điểm là tội pācittiya. ―(như trên)― Một số tỳ khưu có quan điểm là tội dubbhāsita, một số tỳ khưu có quan điểm là tội pāṭidesanīya. ―(như trên)― Một số tỳ khưu có quan điểm là tội dubbhāsita, một số tỳ khưu có quan điểm là tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu nào có quan điểm là tội dubbhāsita, này các tỳ khưu, các vị ấy nên dẫn vị ấy đi ra một góc, sau khi cho (vị ấy) hành xử theo Pháp, rồi đi đến gặp hội chúng và nên nói như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu ấy phạm tội nào, tội ấy đă được sửa chữa theo Pháp cho vị ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā.”

 

29. Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraṇā có vị tỳ khưu nêu lên ở giữa hội chúng rằng: “Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Sự việc này được biết và nhân sự th́ không (biết). Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên loại trừ sự việc rồi tiến hành lễ Pavāraṇā.” Vị ấy nên được nói như vầy: “Này đại đức, đức Thế Tôn đă quy định lễ Pavāraṇā là của các vị trong sạch. Nếu sự việc này được biết và nhân vật th́ không (biết), th́ ngay bây giờ đại đức hăy nói về việc ấy.”

 

30. Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraṇā có vị tỳ khưu nêu lên ở giữa hội chúng rằng: “Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Nhân vật này được biết và sự việc th́ không (biết). Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên loại trừ nhân vật rồi tiến hành lễ Pavāraṇā.” Vị ấy nên được nói như vầy: “Này đại đức, đức Thế Tôn đă quy định lễ Pavāraṇā là của các vị trong sạch và của các sự hợp nhất. Nếu nhân vật này được biết và sự việc th́ không (biết), th́ ngay bây giờ đại đức hăy nói về việc ấy.”

 

31. Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraṇā có vị tỳ khưu nêu lên ở giữa hội chúng rằng: “Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Sự việc này và nhân vật được biết. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên loại trừ sự việc và nhân vật rồi tiến hành lễ Pavāraṇā.” Vị ấy nên được nói như vầy: “Này đại đức, đức Thế Tôn đă quy định lễ Pavāraṇā là của các vị trong sạch và của các sự hợp nhất. Nếu sự việc và nhân vật được biết, th́ ngay bây giờ đại đức hăy nói về việc ấy.” Này các tỳ khưu, nếu sự việc được biết trước ngày lễ Pavāraṇā, c̣n nhân vật (được biết) sau đó th́ thích hợp cho lời nói. Này các tỳ khưu, nếu nhân vật được biết trước ngày lễ Pavāraṇā, c̣n sự việc (được biết) sau đó th́ thích hợp cho lời nói. Này các tỳ khưu, nếu sự việc và nhân vật được biết trước ngày lễ Pavāraṇā và khi lễ Pavāraṇā đă được thực hiện, nếu khơi lại việc ấy th́ phạm tội pācittiya về việc bươi móc.[3]

 

32. Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu là bạn bè đồng quan điểm, thân thiết, đă vào mùa (an cư) mưa tại trú xứ nọ ở trong xứ Kosala. Ở khu vực lân cận của các vị ấy, có những tỳ khưu khác là những vị thường gây nên các sự xung đột, căi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng (cũng) đă vào mùa (an cư) mưa (nói rằng): - “Khi các vị tỳ khưu ấy đă sống qua mùa (an cư) mưa, chúng tôi sẽ đ́nh chỉ sự thỉnh cầu (của các vị ấy) vào ngày lễ Pavāraṇā.” Các vị tỳ khưu ấy đă nghe được rằng: “Nghe nói ở khu vực lân cận của chúng ta, có những tỳ khưu khác là những vị thường gây nên các sự xung đột, căi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng (cũng) đă vào mùa (an cư) mưa (nói rằng): ‘Khi các vị tỳ khưu ấy đă sống qua mùa (an cư) mưa, chúng tôi sẽ đ́nh chỉ sự thỉnh cầu của các vị ấy vào ngày lễ Pavāraṇā,’ vậy chúng ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

 

33. - “Này các tỳ khưu, trường hợp nhiều vị tỳ khưu là bạn bè đồng quan điểm, thân thiết, vào mùa (an cư) mưa tại trú xứ nọ. Ở khu vực lân cận của các vị ấy, có những tỳ khưu khác là những vị thường gây nên các sự xung đột, căi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng (cũng) vào mùa (an cư) mưa (nói rằng): “Khi các vị tỳ khưu ấy đă sống qua mùa (an cư) mưa, chúng tôi sẽ đ́nh chỉ sự thỉnh cầu của các vị ấy vào ngày lễ Pavāraṇā.” Này các tỳ khưu, ta cho phép các vị tỳ khưu ấy thực hiện hai hay ba lễ Uposatha vào ngày mười bốn (nghĩ rằng): “Làm thế nào chúng ta có thể tiến hành lễ Pavāraṇā sớm hơn các vị tỳ khưu ấy?”

 

34. Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu là những vị thường gây nên các sự xung đột, căi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng ấy đi đến chỗ trú xứ ấy, này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu thường trú ấy nên tụ hội lại thật nhanh chóng và tiến hành lễ Pavāraṇā. Sau khi tiến hành lễ Pavāraṇā nên nói rằng: “Này các đại đức, chúng tôi đă thực hiện lễ Pavāraṇā, các đại đức hăy làm theo như điều mà các vị suy nghĩ.”

 

35. Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu là những vị thường gây nên các sự xung đột, căi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng ấy đi đến trú xứ ấy không báo trước, này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu thường trú ấy nên sắp đặt chỗ ngồi, nên đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rồi đi ra đón, nên rước y và b́nh bát, và nên hỏi ư về nước uống. Sau khi xem chừng các vị ấy rồi nên đi ra khỏi ranh giới và nên tiến hành lễ Pavāraṇā. Sau khi tiến hành lễ Pavāraṇā nên nói rằng: “Này các đại đức, chúng tôi đă thực hiện lễ Pavāraṇā, các đại đức hăy làm theo như điều mà các vị suy nghĩ.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đạt được (như thế), các vị tỳ khưu thường trú ấy cần được thông báo bởi vị tỳ khưu thường trú có kinh nghiệm, đủ năng lực: “Xin các đại đức thường trú hăy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho các đại đức, giờ đây chúng ta nên tiến hành lễ Uposatha, chúng ta nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Chúng ta có thể tiến hành lễ Pavāraṇā vào hạ huyền tới.”[4]

 

36. Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu là những vị thường gây nên các sự xung đột, căi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng ấy nói với các vị tỳ khưu ấy như vầy: “Này các đại đức, tốt thôi! Ngay chính hôm nay các vị hăy tiến hành lễ Pavāraṇā với chúng tôi.” Các vị tỳ khưu ấy nên nói như vầy: “Này các đại đức, các vị không có quyền hành về lễ Pavāraṇā của chúng tôi. Chúng tôi không thể thỉnh cầu cho đến lúc ấy.”

 

37. Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu là những vị thường gây nên các sự xung đột, căi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng ấy cư ngụ cho đến thời gian ấy, này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu thường trú ấy cần được thông báo bởi vị tỳ khưu thường trú có kinh nghiệm, đủ năng lực: “Xin các đại đức thường trú hăy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho các đại đức, giờ đây chúng ta nên tiến hành lễ Uposatha, chúng ta nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Chúng ta có thể tiến hành lễ Pavāraṇā vào ngày trăng tṛn tới.”

 

38. Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu là những vị thường gây nên các sự xung đột, căi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng ấy nói với các vị tỳ khưu ấy như vầy: “Này các đại đức, tốt thôi! Ngay chính hôm nay các vị hăy tiến hành lễ Pavāraṇā với chúng tôi.” Các vị tỳ khưu ấy nên nói như vầy: “Này các đại đức, các vị không có quyền hành về lễ Pavāraṇā của chúng tôi. Chúng tôi không thể thỉnh cầu cho đến lúc ấy.”

 

39. Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu là những vị thường gây nên các sự xung đột, căi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng ấy cư ngụ cho đến ngày trăng tṛn ấy, này các tỳ khưu, toàn bộ tất cả các vị tỳ khưu ấy nên tiến hành lễ Pavāraṇā vào ngày trăng tṛn tháng Kattika sắp đến tức là ngày lễ hội Cātumāsinī cho dầu không muốn.

 

40. Này các tỳ khưu, trong khi các vị tỳ khưu ấy đang tiến hành lễ Pavāraṇā, nếu vị bị bệnh đ́nh chỉ sự thỉnh cầu của vị không bệnh, vị ấy nên được nói như vầy: “Đại đức đang bị bệnh. Và đức Thế Tôn đă nói là vị bị bệnh không chịu đựng được sự thẩm vấn. Này đại đức, hăy chờ đến khi đại đức hết bệnh. Khi hết bệnh th́ đại đức sẽ buộc tội nếu mong muốn.” Và khi được nói như thế mà vẫn buộc tội th́ phạm tội pācittiya về việc không tôn trọng.[5]

 

41. Này các tỳ khưu, trong khi các vị tỳ khưu ấy đang tiến hành lễ Pavāraṇā, nếu vị không bị bệnh đ́nh chỉ sự thỉnh cầu của vị bị bệnh, vị ấy nên được nói như vầy: “Này đại đức, vị tỳ khưu này bị bệnh. Và đức Thế Tôn đă nói là vị bị bệnh không chịu đựng được sự thẩm vấn. Này đại đức, hăy chờ cho đến khi vị tỳ khưu này hết bệnh. Rồi đại đức sẽ buộc tội vị không bệnh nếu mong muốn.” Và khi được nói như thế mà vẫn buộc tội th́ phạm tội pācittiya về việc không tôn trọng.

 

42. Này các tỳ khưu, trong khi các vị tỳ khưu ấy đang tiến hành lễ Pavāraṇā, nếu vị bị bệnh đ́nh chỉ sự thỉnh cầu của vị bị bệnh, vị ấy nên được nói như vầy: “Các đại đức đang bị bệnh. Và đức Thế Tôn đă nói là vị bị bệnh không chịu đựng được sự thẩm vấn. Này đại đức, hăy chờ đến khi các vị hết bệnh. Rồi khi không bệnh đại đức sẽ buộc tội vị không bệnh nếu mong muốn.” Và khi được nói như thế mà vẫn buộc tội th́ phạm tội pācittiya về việc không tôn trọng.

 

43. Này các tỳ khưu, trong khi các vị tỳ khưu ấy đang tiến hành lễ Pavāraṇā, nếu vị không bệnh đ́nh chỉ sự thỉnh cầu của vị không bệnh. Cả hai nên được hội chúng thẩm vấn, tra hỏi, nhắc nhở, cho hành xử theo Pháp, rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā.”

 

44. Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu là bạn bè đồng quan điểm, thân thiết, đă vào mùa (an cư) mưa tại trú xứ nọ ở trong xứ Kosala. Trong khi các vị ấy sống có sự hợp nhất, thân thiện, không căi vă nhau, có (trạng thái) an trú lạc nào đó đă được đạt đến. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đă khởi ư điều này: “Trong khi chúng ta sống có sự hợp nhất, thân thiện, không căi vă nhau, có (trạng thái) an trú lạc nào đó đă được đạt đến. Nếu bây giờ chúng ta tiến hành lễ Pavāraṇā, cũng có thể là sau khi tiến hành lễ Pavāraṇā các vị tỳ khưu sẽ ra đi du hành, như thế chúng ta sẽ bị ra khỏi (trạng thái) an trú lạc này; vậy chúng ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

 

45. - “Này các tỳ khưu, trường hợp có nhiều vị tỳ khưu là bạn bè đồng quan điểm, thân thiết, đă vào mùa (an cư) mưa tại trú xứ nọ. Trong khi các vị ấy sống có sự hợp nhất, thân thiện, không căi vă nhau, có (trạng thái) an trú lạc nào đó đă được đạt đến. Nếu các vị tỳ khưu ở đó khởi ư như vầy: “Trong khi chúng ta sống có sự hợp nhất, thân thiện, không căi vă nhau, có (trạng thái) an trú lạc nào đó đă được đạt đến. Nếu bây giờ chúng ta sẽ tiến hành lễ Pavāraṇā, cũng có thể là sau khi tiến hành lễ Pavāraṇā các vị tỳ khưu sẽ ra đi du hành, như thế chúng ta sẽ bị ra khỏi (trạng thái) an trú lạc này.”

 

46. Này các tỳ khưu, ta cho phép các vị tỳ khưu ấy thực hiện sự đồng thuận (postpone) về lễ Pavāraṇā. Và này các tỳ khưu, nên thực hiện như vầy: Toàn bộ tất cả (các vị ấy) nên tụ hội lại một chỗ. Sau khi đă tụ hội lại, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 

47. “Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Trong khi chúng ta sống có sự hợp nhất, thân thiện, không căi vă nhau, có (trạng thái) an trú lạc nào đó đă được đạt đến. Nếu bây giờ chúng ta sẽ tiến hành lễ Pavāraṇā, cũng có thể là sau khi tiến hành lễ Pavāraṇā các vị tỳ khưu sẽ ra đi du hành, như thế chúng ta sẽ bị ra khỏi (trạng thái) an trú lạc này. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thực hiện sự đồng thuận về lễ Pavāraṇā, bây giờ chúng ta nên tiến hành lễ Uposatha, nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha, và nên tiến hành lễ Pavāraṇā vào ngày trăng tṛn tháng Kattika sắp đến tức là ngày lễ hội Cātumāsinī. Đây là lời đề nghị.

 

48. Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Trong khi chúng ta sống có sự hợp nhất, thân thiện, không căi vă nhau, có (trạng thái) an trú lạc nào đó đă được đạt đến. Nếu bây giờ chúng ta sẽ tiến hành lễ Pavāraṇā, cũng có thể là sau khi tiến hành lễ Pavāraṇā các vị tỳ khưu sẽ ra đi du hành, như thế chúng ta sẽ bị ra khỏi (trạng thái) an trú lạc này. Hội chúng thực hiện sự đồng thuận về lễ Pavāraṇā, bây giờ sẽ tiến hành lễ Uposatha, sẽ đọc tụng giới bổn Pātimokkha, và sẽ tiến hành lễ Pavāraṇā vào ngày trăng tṛn tháng Kattika sắp đến tức là ngày lễ hội Cātumāsinī. Đại đức nào đồng ư việc thực hiện sự đồng thuận về lễ Pavāraṇā, bây giờ (hội chúng) sẽ tiến hành lễ Uposatha, sẽ đọc tụng giới bổn Pātimokkha, và sẽ tiến hành lễ Pavāraṇā vào ngày trăng tṛn tháng Kattika sắp đến tức là ngày lễ hội Cātumāsinī xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.

 

49. Sự đồng thuận về lễ Pavāraṇā đă được hội chúng thực hiện, bây giờ (hội chúng) sẽ tiến hành lễ Uposatha, sẽ đọc tụng giới bổn Pātimokkha, và sẽ tiến hành lễ Pavāraṇā vào ngày trăng tṛn tháng Kattika sắp đến tức là ngày lễ hội Cātumāsinī. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

 

50. Này các tỳ khưu, nếu khi sự đồng thuận về lễ Pavāraṇā đă được hội chúng thực hiện, có vị tỳ khưu nọ nói như vầy: “Này các đại đức, tôi muốn ra đi du hành ở trong xứ sở. Tôi có công việc cần làm ở trong xứ sở.” Vị ấy nên được nói như vầy: “Này đại đức, tốt lắm! Hăy thực hiện lễ Pavāraṇā rồi hăy đi.”

 

51. Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu ấy trong khi đang thỉnh cầu lại đ́nh chỉ sự thỉnh cầu của vị tỳ khưu khác. Vị ấy nên được nói như vầy: “Này đại đức, đại đức không có quyền hành về lễ Pavāraṇā của tôi, tôi sẽ không thỉnh cầu cho đến lúc ấy.” Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu ấy trong khi đang thỉnh cầu, có vị tỳ khưu khác đ́nh chỉ lễ Pavāraṇā của vị tỳ khưu ấy. Cả hai nên được hội chúng thẩm vấn, tra hỏi, nhắc nhở, rồi cho hành xử theo Pháp.

 

52. Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu ấy sau khi hoàn tất công việc cần làm ấy ở trong xứ sở lại quay trở về trú xứ ấy trước ngày trăng tṛn tháng Kattika tức là ngày lễ hội Cātumāsinī. Này các tỳ khưu, nếu trong khi các vị tỳ khưu ấy đang thỉnh cầu, có vị tỳ khưu nọ đ́nh chỉ lễ Pavāraṇā của vị tỳ khưu ấy. Vị nọ nên được nói như vầy: “Này đại đức, đại đức không có quyền hành về lễ Pavāraṇā của tôi. Tôi đă thỉnh cầu rồi.” Này các tỳ khưu, nếu trong khi các vị tỳ khưu ấy đang thỉnh cầu, vị tỳ khưu ấy đ́nh chỉ sự thỉnh cầu của vị tỳ khưu khác. Cả hai nên được hội chúng thẩm vấn, tra hỏi, nhắc nhở, cho hành xử theo Pháp, rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā.”

 

Dứt chương Pavāraṇā là chương thứ tư.

 

--ooOoo--

 

 

Trong chương này có bốn mươi sáu sự việc.

 

 

TÓM LƯỢC CHƯƠNG NÀY

 

 

1. (Các vị) đă sống qua mùa (an cư) mưa ở xứ Kosala đă đi diện kiến bậc Đạo Sư, sự sống chung như loài thú một cách không thoải mái, về sự hài ḥa với nhau.

 

2. Trong khi đang cầu thỉnh (ngồi yên) ở chỗ ngồi, và có hai (ngày lễ), hành sự, vị bị bệnh, các thân quyến, rồi đức vua, bọn cướp, lũ bất lương, các kẻ đối nghịch tỳ khưu cũng giống y như thế.

 

3. Năm, bốn, ba, hai, một vị, bị phạm tội, có sự nghi ngờ, vị đă nhớ lại, tất cả hội chúng có sự nghi ngờ, nhiều hơn, tương đương, và ít hơn.

 

4. Các vị thường trú, ngày mười bốn, đặc điểm, các vị đồng cộng trú, cả hai, nên đi đến, không với vị ni ngồi, về việc bày tỏ sự tùy thuận, lễ Pavāraṇā.

 

5. V́ đám lục lâm, (đêm) đă tàn, đám mây đen, các điều nguy hiểm, và sự thỉnh cầu, các vị không để cho thỉnh ư, trước chúng ta, đă không bị đ́nh chỉ, và của vị tỳ khưu.

 

6. Và do điều ǵ? và thế nào? do đă thấy, do đă nghe, do sự nghi ngờ, vị (nguyên cáo) kết tội, và vị bị kết tội, tội thullaccaya, sự việc, (gây ra) sự xung đột, lễ Pavāraṇā, và sự đồng thuận, không có quyền hành, (hội chúng) nên tiến hành lễ Pavāraṇā.

 

--ooOoo--

  


 

[1] Pavāraṇā: là danh từ có ư nghĩa là ‘sự thỉnh cầu,’ và c̣n là tên của buổi lễ dành cho các tỳ khưu đă hoàn tất mùa (an cư) mưa thời điểm trước. Lễ này đă được dịch là Tự Tứ. Ở ngữ cảnh này, chúng tôi mạn phép giữ nguyên từ Pāli cho tên của cuộc lễ. C̣n Pavāreti là động từ. Chúng tôi sẽ dịch theo hai lối là ‘thỉnh cầu’ hoặc ‘tiến hành lễ Pavāraṇā’ tùy theo ngữ cảnh.

[2] Nghĩa là tập thể này không phải là các vị đang chịu hành phạt parivāsa. Chúng tôi chọn nghĩa như trên dựa vào lời giải thích của nhóm từ “vuṭṭhitāya parisāya = với tập thể đă bị cách ly” là “với việc ban cho sự thỏa thuận từ các vị (tỳ khưu) đang chịu hành phạt parivāsa” được t́m thấy ở bộ Bhikkhunīvibhaṅga - Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni. Từ avuṭṭhitāya c̣n có nghĩa là “chưa đứng lên, chưa được thoát tội.”

[3] Liên quan đến tội pācittiya 63 về việc khơi lại sự tranh tụng đă được giải quyết đúng theo pháp (ND).

[4] Ngày này chính là ngày cuối tháng âm lịch của Việt Nam, tức là ngày 29 hoặc 30 (ND).

[5] Liên quan đến tội pācittiya 54 về sự không tôn trọng (ND).

 

 

   
 

| 00 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 |

 
 

<Mục Lục><Đầu Trang>