|
|
Giới thiệu:
Tỳ kheo Brahmavamso là một tu sĩ người Anh. Ông xuất gia năm 23 tuổi sau
khi tốt nghiệp Đại học Oxford ở Anh quốc. Ông là một trong những vị đệ
tử người Tây phương đầu tiên của ngài thiền sư Ajahn Chah, Thái Lan.
Hiện nay, ông là vị Tăng trưởng Tu viện Bodhinyana (Giác Minh) và là vị
lănh đạo tinh thần Hội Phật Giáo Tây Úc.
--ooOoo--
Ngay từ lúc đạo Phật được thành lập hơn 2500 năm về trước, các Tăng Ni
vẫn sống nhờ vào việc khất thực. Trước kia và hiện giờ cũng vậy, họ
không được phép trồng tỉa lấy lương thực, không được tích lũy thực phẩm,
cũng như không được tự nấu nướng thức ăn. Thay vào đó, mỗi buổi sáng họ
dùng bữa của ḿnh bằng cách sử dụng bất kỳ thứ ǵ các Phật Tử đă tự
nguyện dâng cúng cho họ. Cho dù thức ăn có giàu năng lượng hay kém phẩm
chất, khoái khẩu hay khó ăn, tất cả đều được họ chấp nhận với ḷng tri
ân và được xem như là dược phẩm để duy tŕ sự sống. Đức Phật đă đặt ra
nhiều giới luật ngăn cấm chư Tăng không được đ̣i hỏi thức ăn mà họ ưa
thích. Kết quả là chư Tăng chỉ nhận các loại thực phẩm giống hệt như
thức ăn người dân thường hay sử dụng -- và thông thường th́ các thực
phẩm đó có chứa thịt cá.
Một lần nọ, có một vị tướng giàu có và đầy uy thế tên là Siha (nghĩa là
"Sư tử") đến thăm Đức Phật. Tuớng quân Siha trước kia là đồ đệ hết ḷng
ủng hộ các tu sĩ Kỳ-na giáo; nhưng ông rất cảm động và cảm kích sau khi
nghe những lời dạy của Đức Phật, nên ngay trong buổi gặp gỡ đó, vị tướng
này đă xin quy y Tam Bảo (nghĩa là trở thành Phật tử). Sau đó, tướng
quân Siha mời Đức Phật cùng với một số rất đông các vị chư Tăng đến nhà
của ông trong thành phố để dùng cơm vào buổi sáng hôm sau. Để sửa soạn
cho bữa cúng dường thức ăn đó, tướng quân Siha ra lệnh người đầy tớ đi
mua một số thịt ở chợ để dùng vào dịp lễ này. Khi các vị tu sĩ Kỳ-na
giáo nghe biết được sự quy y Phật Pháp của người bảo trợ cũ của họ và
ông ta đang sửa soạn một bữa cơm cúng dường Đức Phật cùng chư Tăng, họ
trở nên bực tức và nói rằng:
"Từ nay sẽ có nhiều vị đạo sĩ Ni-kiền (tu sĩ Kỳ-na giáo) vẫy tay, than
phiền từ đường xe ngựa này đến đường xe ngựa khác, từ khắp ngă rẽ này
sang ngă rẽ khác trong thành phố, rằng: Ngày hôm nay tướng quân Siha đă
giết một con vật béo, để dọn một bữa tiệc thiết đăi ẩn sĩ Cồ Đàm (Đức
Phật). Ẩn sĩ Cồ Đàm đă cố ư ăn thịt từ con vật mà ông ta biết đă được
giết để thiết đăi ông ta và các vị chư tăng đi theo; và việc này được
thực hiện chỉ v́ ông ta mà thôi" [1]
Thật ra, tướng quân Siha đă phân biệt rất hợp với đạo đức, giữa một bên
là thịt mua tại chợ đă được giết mổ sẵn để bán và bên kia là mua một con
vật c̣n sống và ra lệnh giết. Sự phân biệt này không mấy hiển nhiên đối
với một số người Âu Mỹ, nhưng đă được ghi chép rất nhiều lần trong giáo
lư của Đức Phật. Thế rồi, để xác định rơ thái độ về việc ăn thịt cho chư
Tăng, Đức Phật dạy:
"Này chư Tỳ-kheo, Ta cho phép các vị dùng thịt cá trong ba truờng hợp
sau đây: thịt này phải chưa được các vị nh́n thấy, các vị chưa được nghe
biết, hoặc giả chư vị không có ǵ phải nghi ngờ là con vật đó đă được
sát sanh chỉ nhằm mục đích thiết đăi cho chư vị. Nhưng các vị không được
cố t́nh sử dụng thứ thịt đă được giết chỉ dành cho các vị sử dụng mà
thôi." [2]
Có nhiều đoạn trong Kinh điển Phật giáo cho thấy Đức Phật và các vị chư
Tăng của ngài được cúng dường thịt và các ngài cũng nhận để ăn. Một
trong những đoạn kinh nầy được viết trong phần mở đầu câu chuyện liên
quan đến một giới luật hoàn toàn không liên quan ǵ đến thịt (Ni-tát-kỳ
Ba-dật đề, Xả đọa pháp, 5) và thoáng qua cho thấy thịt nói ở đây hoàn
toàn chỉ là ngẫu nhiên đối với đề tài chính mà câu chuyện muốn nhấn mạnh
đến tính xác thực của đoạn văn:
- Bà Uppalavanna (Liên hoa sắc) là một trong hai vị nữ đại đệ tử của Đức
Phật. Bà thọ giới tỳ-kheo-ni khi vẫn c̣n trẻ và chẳng bao lâu đă được
giác ngộ hoàn toàn. Ngoài sự kiện bà là một vị A-la-hán, bà c̣n có nhiều
uy lực thần thông đến độ chính Đức Phật đă tuyên bố bà là người lỗi lạc
nhất trong số tất cả các vị nữ đệ tử về mặt này. Một lần kia, trong khi
bà Uppalavanna đang ngồi tham thiền một ḿnh vào buổi trưa tại khu vườn
"Người Mù", trong một cánh rừng hẻo lánh bên ngoài thành Xá-vệ, có một
vài tên cướp đi ngang qua đó. Mấy tên cướp vừa mới đánh cắp một con ḅ,
giết con vật và chạy trốn với một ít thịt. Vừa nh́n thấy một vị ni sư
tham thiền điềm tĩnh và nghiêm trang, tên cướp đầu sỏ đă nhanh nhẹn bỏ
một ít thịt ḅ trong một cái bao làm bằng lá cây và để lại cho ni sư. Ni
sư Uppalavanna nhặt miếng thịt ḅ lên và quyết định dâng cúng cho Đức
Phật. Ngay sáng sớm hôm sau, sau khi đă nấu thức ăn với thịt đó, bà cất
ḿnh lên không trung và bay tới nơi đức Phật đang ngụ, tại Trúc lâm bên
ngoài thành Vương xá, và như thế Ni sư đă bay một quăng đường trên 200
kí-lô-mét. Mặc dù không nghe nói đến việc Đức Phật đă thực sự sử dụng
món thịt đó, nhưng rơ ràng là một ni sư có nhiều thần thông ắt hẵn bà đă
biết Đức Phật dùng món ăn nào.
Tuy nhiên cũng có một số thịt đặc biệt cấm các vị chư tăng không được sử
dụng. Đó là: thịt người, v́ những lư do đă quá rơ ràng; thịt voi và thịt
ngựa v́ trong thời kỳ đó, hai con vật này được coi là thú vật của nhà
vua; thịt chó - v́ dân chúng thường coi chó là con vật ghê tởm; thịt
rắn, sư tử, cọp, báo, gấu và linh cẩu - v́ người ta tin rằng ai ăn thịt
những loài thú rừng nguy hiểm này sẽ toát ra một mùi đặc biệt có thể
khiến cho các con vật đồng loại tấn công người đó để trả thù.
Vào cuối cuộc đời Đức Phật, người anh họ của ngài tên là Devadatta
(Đề-bà-đạt-đa) có ư định chiếm quyền lănh đạo Tăng đoàn. Để có được hậu
thuẫn của các vị khác, Devadatta đă cố gắng tỏ ra nghiêm khắc hơn cả Đức
Phật và muốn chứng minh rằng Đức Phật có phần dễ duôi. Devadatta đề nghị
với Đức Phật là tất cả các vị Tăng Ni đều phải "ăn rau đậu" ("ăn chay
trường"). Đức Phật đă từ chối và một lần nữa Ngài nhắc lại một giới luật
mà Ngài đă thiết lập nhiều năm về trước, qui định tất cả các Tăng Ni có
thể ăn thịt hay cá, khi nào biết rơ thịt con vật đó không bị cấm sử dụng
và khi họ không có lư do ǵ để nghi ngờ rằng con vật đó được giết đặc
biệt dùng để chiêu đăi họ (Tam tịnh nhục).
Hồi đó, Luật đă đề cập rơ ràng đến vấn đề này. Các vị Tăng Ni có thể ăn
thịt. Ngay cả Đức Phật cũng đă dùng thịt. Tiếc thay, một số người Tây
phương ngày nay thường xem việc ăn thịt đối với các vị Tăng Ni như là sự
nuông chiều ưu đăi. Đó là một điều rất xa sự thật - v́ tôi đă từng thực
hiện việc "ăn chay trường" được ba năm trước khi trở thành một tu sĩ.
Trong năm đầu khi tôi tu học tại vùng Đông Bắc Thái Lan, tôi đă phải cố
gắng đối diện với nhiều bữa ăn chỉ có cơm nếp với ếch luộc (ăn toàn bộ
cả thịt lẫn xương), hoặc với ốc sên dai như cao su, hoặc kiến càng nấu
với cà-ri, hoặc châu chấu chiên ḍn - tôi nghĩ có lẽ người "ăn chay" là
người tốt phước hơn! Nhân ngày Lễ Giáng Sinh đầu tiên tại miền Đông Bắc
Thái Lan, một người Mỹ đến thăm tu viện khoảng độ một tuần trước ngày 25
tháng 12. Thật khó có thể tin nổi, ông ta có một trại nuôi gà tây, và
rồi, ông ta đă nhanh chóng nhận ra chúng tôi đang phải sống trong hoàn
cảnh khổ sở như thế nào. Ông ta hứa sẽ đem đến cho chúng tôi một con gà
tây để ăn Giáng Sinh. Ông ta bảo sẽ chọn một con gà tây thật to béo đặc
biệt dành cho chúng tôi... và tôi thấy nản ḷng. Chúng tôi không thể
nhận thịt gà tây đó khi biết đích xác con vật bị giết lấy thịt đặc biệt
để cho các vị tăng ni sử dụng. Chúng tôi từ chối không nhận món quà đó.
Thế là tôi đành phải quay về với thức ăn của cư dân trong làng - lại cơm
nếp với ếch luộc.
Các vị tăng ni không được lựa chọn ǵ cả khi đến bữa ăn và điều này c̣n
khó khăn hơn là "ăn chay trường". Tuy nhiên, chúng ta có thể khuyến
khích việc ăn rau đậu, và nếu như những vị cư sĩ hộ tăng đem đến cúng
dường chư Tăng toàn là thực phẩm rau đậu và không có thịt, th́ trong
trường hợp đó, các vị sư cũng không phàn nàn. Mong rằng quí vị hiểu cho
điều nầy, và hăy đối xử tốt với các loài thú vật.
Tài liệu tham
khảo
[1] Book of the Discipline (Luật tạng), Vol. 4, p.324
[2] ibid, p. 325
Tác giả: Ajahn Brahmavamso, Tỳ kheo Thiện Minh dịch.
Nguyên tác: "What the Buddha said about eating meat?"
Nguồn:
www.chuaphapvan.com/vn
|
|
|